Bí mật phép lạ vua Mây lẫy lừng trong sử
Việt
Cập nhật lúc: 08:00 07/03/2015
(Kiến Thức) - Là 1 trong 12 sứ
quân, tham gia trận Bạch Đằng đánh bại quân Nam Hán, Phạm Bạch Hổ không chỉ phò
nhà Ngô, giúp nhà Đinh dẹp loạn mà ông còn là “hổ trắng” lừng lẫy.
Là 1 trong 12 sứ quân, tham gia
trận Bạch Đằng đánh bại quân Nam Hán, Phạm Bạch Hổ không chỉ phò nhà Ngô, giúp
nhà Đinh dẹp loạn mà ông còn là “hổ trắng” lừng lẫy. Khi
qua đời, ông hóa ra mây ra gió giúp vua đánh giặc rồi được phong là Đằng Vương,
tức vua Mây.
Nhưng lịch sử ít ghi chép và
cũng ít người biết về giai thoại trước khi Phạm Bạch Hổ ra đời. Khi qua đời,
ông được nhân dân phong thánh đúng như câu thơ: Thương dân, dân lập đền thờ. Và
hiện nay, ở TP Hưng Yên vẫn còn đó ngôi đền thiêng phố Hiến gọi là đền Mây.
Sinh thành từ giấc mơ hổ trắng
Bà Bùi Thị Phấn, Trưởng phòng
Nghiệp vụ Văn hóa, Sở VH-TT&DL tỉnh Hưng Yên cho biết, từ xa xưa địa phương
đã lưu truyền câu chuyện ở trang Ngọc Đường, phủ Khoái Châu có một người hiền
nữ, tên gọi Doanh Nương. Nàng sinh trưởng từ một gia đình đã bao đời tu nhân
tích đức. Sắc đẹp tựa ngọc, mặt hoa da phấn của nàng như người ở cung nga.
Doanh Nương thường hay du ngoạn khắp chốn Đông - Đoài.
Năm 24 tuổi, gót hồng nàng nhẹ
bước qua đất Đằng Châu, phủ Kim Động, bỗng trời đất nổi cơn phong ba bão táp,
sấm chớp giật liên hồi. Doanh Nương sợ hãi chạy vào một ngôi miếu cổ thờ Sơn
Thần trú chân. Bỗng từ thượng điện, một con hổ trắng to lớn nhảy xuống phủ kín người,
nàng bàng hoàng ngất lịm.
Tỉnh dậy, thấy người nhẹ nhõm,
bước chân về nhà như có gió đẩy, mây đưa. Sau đó, Doanh Nương có thai rồi sinh
một người con trai khôi ngôi, tuấn tú đặt tên là Phạm Bạch Hổ, tự là Phạm Phòng
Át.
Phạm Bạch Hổ thông minh khác lạ. Mới bảy tuổi đã thông thạo
văn chương. Năm mười sáu tuổi văn, võ song toàn, tài cao trí lớn. Đến năm mười
tám tuổi, chàng thoả chí vẫy vùng thì người mẹ lâm bệnh quy tiên. Bấy giờ giặc
Nam Hán cử tướng Hoằng Thao đem đại binh sang xâm chiếm nước ta.
Ngô Vương Quyền hạ chiếu tìm
người tài ra giúp nước. Phạm Phòng Át được phong làm Tiền đạo tướng quân, chỉ
huy sứ, lĩnh hai ngàn quân đi đánh giặc. Ông dùng kế đóng cọc nhọn xuống sông
Bạch Đằng giết chết tướng Hoằng Thao, góp sức làm nên chiến thắng Bạch Đằng lẫy
lừng.
Ngô Quyền làm vua được 6 năm
rồi mất. Ngô triều suy thoái, đất nước nguy cơ không giữ nổi tự chủ. Mười hai
sứ quân đứng lên, mỗi người hùng cứ một nơi. Phạm Bạch Hổ trấn giữ phủ Khoái
Châu, tuần phòng lên tới cửa sông Hát. Sau này, Phạm Bạch Hổ cùng Đinh Bộ Lĩnh
dẹp loạn 12 sứ quân, thành trọng thần nhà Đinh.
Một ngày kia, khi qua địa phận
làng Phương Mạc, Phạm Bạch Hổ bỗng hoá thành đám mây vàng bay về trời. Dân địa
phương vô cùng nhớ ơn thương tiếc, lập đền thờ, tôn ông làm thành hoàng làng. Vua
Lê Đại Hành sau này phong mỹ tự: “Bản cảnh thành hoàng Phạm Lệnh Công hiển ứng
đại vương”.
Lê Thái Tổ phong: “Phổ tế cương
nghị anh linh hùng kiệt đại vương” và sắc chỉ cho dân trùng tu miếu điện, hương
khói thờ phụng muôn đời. Ngôi đình cổ bề thế thờ người con là bậc phúc thần.
Bên cạnh là đền thờ Thánh Mẫu Doanh Nương. Dân thôn quen gọi là Miếu Bà.
Phép lạ vua Mây
Bà Phấn lần giở những tư liệu
cổ đã cũ kỹ lắm mà xem lại các ghi chép để lại. Tất cả đều cho rằng đền Mây
được xây dựng từ thời nhà Đinh với những câu chuyện linh thiêng. Sách “Việt
điện u linh” có nói đến thần thổ địa ở Đằng Châu khi vua Lê Long Đĩnh chưa lên
ngôi, có thực ấp ở đây, thường bơi thuyền dạo chơi.
Một hôm thuyền đang trên sông
bỗng mây kéo đến tối sầm, gió thổi rất mạnh, mưa to sắp đổ xuống. Long Đĩnh tìm
nơi trú ẩn, thấy trên bờ sông có đền, mới hỏi người làng: “Đền thờ thần gì?”,
người làng thưa: “Đây là đền thờ thần thổ địa”, Long Đĩnh hỏi: “Có thiêng
không?”, dân thưa rằng: “Đây là chỗ dựa của một châu, lễ cầu mưa hay cầu tạnh
đều rất ứng”.
Long Đĩnh bèn nói to lên: “Nếu
thần khiến được mưa gió thì nay thử khiến cho bên này sông tạnh, bên kia sông
mưa. Thế mới thật là thiêng”. Nói xong quả nhiên nửa sông bên kia mưa rất to,
nửa sông bên này chỉ có gió mát. Long Đĩnh không bị ướt, lấy làm lạ mới sai tu
bổ đền thờ.
Lại có câu chuyện kể rằng, thời
vua Lý Thái Tông đi đánh giặc Chiêm Thành lần thứ 2, qua đền Đằng Châu mới dừng
nghỉ ngơi và cho người sắm sửa lễ vật mang vào cầu thần phù giúp thắng trận.
Đêm đó, thần báo mộng cho vua hãy tiến quân.
Tuy nhiên, lúc đó quân nhà Lý
dùng thuyền xuôi phương Nam
nhưng gặp gió thổi ngược. Thần liền hóa thành con chim đậu trên cột buồm. Trời
đang gió Nam
chuyển thành gió Bắc. Đại quân chiến thuyền thuận gió nên tiến rất nhanh đến
cửa Tư Dung.
Khi đó, quân Chiêm Thành đã bày
trận sẵn sàng giáp chiến. Tình thế bất lợi cho quân nhà Lý vì phải có thời gian
lên bờ. Bỗng trên mặt nước xuất hiện từng đàn cá nổi lên tạo thành con đường
cho quân lính đổ bộ.
Quân Chiêm xông đến, chưa kịp
giao tranh thì một cơn giông nổi lên, cát bụi cuốn vào trận địa. Quân Chiêm
hoảng hồn, rối loạn, quân Lý nhân thế phá trận đánh bại quân Chiêm Thành.
Khi ban sư, ca khúc khải hoàn
trở về Thăng Long. Lý Thái
Tông đã cho ghi vào điển tích chuyện vua Mây và ban tám chữ: “Điểu tích truyền
binh/Ngư đầu hộ độ”.
Di sản để lại
Cho đến nay, sau rất nhiều hội
thảo khoa học, các nhà nghiên cứu đều cho rằng, Mây là ngôi đền có nhiều giá
trị văn hóa đặc sắc còn lưu giữ trọn vẹn với 27 pho tượng cổ thời Hậu Lê. Nhìn
vào các pho tượng đó, người thời nay thấy được sự sáng tạo không mệt mỏi của
những nghệ nhân cùng giá trị mỹ thuật của từng thời kỳ lịch sử.
Toà tiền tế với 3 gian được làm
kiểu tường hồi bít đốc, mái lợp ngói mũi. Chính giữa toà tiền tế treo bức đại
tự khảm trai có ghi hàng chữ “Thái Bình vương Phủ”. Dân gian coi vua Mây là vua
của khu vực Thái Bình xưa. Các gian bên treo các bức hoành phi ghi chữ: “Phúc
dẫn Đằng lưu”, tức sông Đằng dẫn phúc; “Anh phi Châu quận”, tức bậc anh tài ở
quận Châu và “Bán giang lĩnh tích”, dịch là nửa dòng sông còn in dấu tích.
Ngoài ra, trong đền còn có các
bức cửa võng, đại tự, hoành phi, nhang án, ngai kiệu mang nhiều giá trị lịch sử
vô cùng quý hiếm. Đặc biệt là bức trâm của TS Chu Mạnh Trinh ca ngợi sự linh
thiêng của ngôi đền. Những hiện vật đó cho đến ngày nay được coi là những báu
vật vô giá.
Trước đền Mây, cạnh Miếu Bà là
cây đa cổ thụ. Tương truyền cây đa có từ thời mới lập đền. Cây cổ thụ bây giờ
chỉ là một nhánh nhỏ còn sót lại mà thôi. Cây đa xưa vươn bóng tỏa rợp một vùng
rộng lớn, trùm lên cả bến Lảnh, đò Mây. Thế nên dân gian có câu: Trăm cảnh
nghìn cảnh, không bằng bến Lảnh, đò Mây.
Đền Mây thuộc địa phận thôn Đằng Châu
- phường Lam Sơn - Thị xã Hưng Yên - tỉnh Hưng Yên.
Xưa kia, nơi đây là vùng vạn chài Xích Đằng với bến đò Mây, thuyền bè ra vào buôn bán tấp nập. Đền Mây thờ tướng quân Phạm Phòng Át tức Phạm Bạch Hổ, vị tướng tài ba của nước ta trong thời kỳ đầu của kỷ nguyên độc lập tự chủ (đầu thế kỷ thứ X đến đầu thế kỷ XI).
Theo
“Đại Nam nhất thống
chí”, Phạm Bạch Hổ sinh
ngày 10 tháng Giêng năm Canh Ngọ (910),
thân phụ là Phạm Lệnh Công
người lộ Nam Sách Giang (nay là Kim Thành- Hải Dương). Lệnh Công có tiệm buôn lớn ở Đằng Châu
- Kim Động - Hưng Yên (nay là Xích Đằng - Lam Sơn - Hưng
Yên). Tương truyền mẹ ông nằm mộng thấy Sơn Tinh
và Hổ trắng mà có mang nên đã đặt tên ông là Bạch Hổ. Lớn lên Bạch Hổ có thân hình vạm vỡ, mạnh mẽ như hổ, thông minh hơn người, văn
võ song toàn. Phạm Bạch Hổ từng làm hào trưởng đất Đằng Châu, là tướng tài của Dương Đình Nghệ. Năm Tân Mão 931, ông giúp chủ tướng đánh đuổi Lý Tiến, thứ sử Giao
Châu; đánh bại Trần Báo do Đường Minh Tông cử sang cứu viện, rồi xưng tiết độ sứ. Khi
Kiều Công Tiễn, một nha tướng của Dương Đình Nghệ giết chết chủ tướng, đoạt chức rồi cầu cứu quân
Nam Hán xâm lược nước ta. Phạm Bạch Hổ đã phối hợp với Ngô Quyền đem quân tiêu diệt Kiều Công Tiễn và đánh tan
quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng năm Mậu Tuất (938). Khi Ngô Quyền mất, Dương Tam Kha cướp ngôi Vua, Phạm Bạch Hổ cùng Đỗ Cảnh Thạc lật đổ Dương Tam
Kha đưa Ngô Xương Văn, con của Ngô Quyền lên
ngôi, thời kỳ này được gọi là Hậu Ngô Vương. Năm 965, Hậu Ngô Vương mất, các hào kiệt trong nước nổi lên cát cứ từng
vùng. Phạm Bạch Hổ chiếm giữ Đằng Châu và là một trong mười hai sứ quân
thời đó. Năm 968 Vạn Thắng vương - Đinh Bộ Lĩnh được sứ quân
Trần Lãm giao toàn bộ binh quyền, đã dẹp
"Loạn 12 sứ quân". Phạm Bạch Hổ đem quân quy thuận được phong
là thân vệ Đại tướng
quân. Ngày 16/11 năm Nhâm Thân (972), Phạm Bạch Hổ mất tại quê
nhà, thọ 62 tuổi. Đinh Tiên Hoàng đã sắc cho nhân dân lập đền thờ, các triều đại đều phong tặng ông là: “Khai thiên hộ quốc tối linh thần”.
Tương truyền thần rất linh
thiêng. Cuốn “Việt điện u
linh” khi nói đến thần thổ địa ở Đằng Châu - Hưng Yên có chép: xưa Vua
Lê Ngoạ Triều (tức Lê
Long Đĩnh) khi chưa lên ngôi, có thực ấp ở Đằng
Châu, thường bơi thuyền dạo chơi. Một hôm thuyền đang trên
sông bỗng mây kéo đến tối sầm, gió thổi rất mạnh, mưa to sắp đổ xuống, Long Đĩnh tìm nơi trú ẩn, thấy trên
bờ sông có đền, mới hỏi người làng:
“Đền thờ thần gì”,
người làng thưa: “đây là đền thờ thần thổ địa”, Vương hỏi “có thiêng không?” thưa rằng “đây là chỗ dựa của một châu,
lễ cầu mưa, cầu tạnh đều rất ứng”. Vương bèn
nói to lên rằng:
"Nếu thần khiến được mưa gió
thì nay thử khiến cho bên này sông tạnh, bên kia sông mưa. Thế mới thật là
thiêng!”. Nói xong quả nhiên
nửa sông bên kia mưa rất to, nửa sông bên này chỉ có gió
mát. Long Đĩnh
không bị ướt, lấy làm lạ mới sai
tu bổ đền thờ.
Trải qua thời gian,
Đền Mây đã được trùng tu, tu sửa nhiều lần. Ngày nay, kiến trúc ngôi đền vẫn mang
đặc trưng nghệ thuật chạm khắc thời Hậu Lê và thời Nguyễn. Đền được xây dựng kiểu chữ Tam gồm: tiền tế, trung
từ và hậu cung. Toà tiền tế với 3 gian được làm kiểu tường hồi bít đốc, mái lợp ngói
mũi. Kết cấu các bộ vì kiểu chồng rường giá
chiêng con nhị, nâng
đỡ mái là hệ thống các hàng cột, chân được kê lên tảng đá
vuông. Các con rường được chạm hình
hoa xoắn và kê lên đấu vuông thót đáy. Đầu dư chạm thành đầu rồng mềm mại, uyển chuyển. Các
bức cốn chạm chủ đề tứ linh, tứ quý.
Ngăn giữa hiên và tiền tế là hệ thống cửa bức bàn
(thượng song hạ bản).
Chính nhờ hệ thống cửa này đã tạo ra hai khoảng
không gian tách biệt giữa trong và ngoài. Tiền tế được trang trí bằng hệ thống cửa võng,
đại tự, hoành phi, câu đôí. Chính giữa toà tiền tế treo bức đại tự khảm trai có ghi hàng chữ “Thái Bình vương Phủ”. Các gian bên treo các bức hoành phi có ghi: “Phúc dẫn Đằng lưu” (Sông Đằng dẫn
phúc); “Anh phi Châu quận” (Bậc anh tài ở quận Châu)
và "Bán giang lĩnh
tích” (Nửa dòng sông còn in dấu tích). Ngoài ra còn có bức trâm viết bằng chữ Hán do tiến sỹ Chu Mạnh Trinh (quan Án sát tỉnh Hưng Yên)
đề năm Mậu Tuất
(1888) ca ngợi cảnh đẹp của Đằng Châu
và công lao của Phạm Bạch Hổ.
Nối với tiền tế là 5
gian trung từ được làm song song nhưng nền nhà
cao hơn. Trung từ có kết cấu kiểu vì
giá chiêng, với hệ thống cột gỗ lim vững chắc kê
trên chân tảng đá lớn hình quả bồng để nâng đỡ mái.
Các bộ vì gian bên trang trí
hoạ tiết hoa văn đơn giản,
riêng hai bộ vì
gian giữa được chạm khắc cầu kỳ hơn. Đầu dư, đầu bẩy, con
rường chạm hình đao lửa, hoa lá. Hai bên cột treo đôi câu đối ca ngợi công
lao của tướng quân.
"Bá
chủ hùng đồ thập nhị sơn hà dư cổ luỹ
Thần cao linh khí bán phân tinh vũ thử tiền giang".
Tạm dịch:
"Anh
hùng bá chủ một vùng, non nước phân chia 12 sứ quân
Linh
thiêng hiển hiện của thần, khúc sông này nửa phân mưa nắng".
Hậu cung gồm 3
gian, kết cấu vì chồng rường đơn giản, không chạm trổ hoa
văn. Trong đền còn lưu giữ 27 pho
tượng, hầu hết được tạo tác từ thời Lê,
hai cỗ kiệu bát cống và một lư hương đồng rất quý.
Hàng năm, lễ hội Đền Mây được tổ chức ở hai thời điểm khác nhau: Tháng Giêng từ ngày mồng 8 đến ngày 16 (âm lịch) là lễ hội kỷ niệm ngày sinh; từ ngày 12 đến ngày 18 tháng 11
(âm lịch) là lễ hội kỷ niệm ngày hoá của tướng quân Phạm Bạch Hổ. Trong lễ hội ngoài tế lễ trước đây còn diễn ra phần hội với nhiều trò chơi truyền thống mang đậm nét văn hoá của cư dân Bắc Bộ như: đấu vật, múa lân, hát trống quân, múa rối nước, đánh cờ… Ngày nay, lễ hội được tổ chức đơn giản hơn, mục đích là tuyên truyền đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước, bài trừ những hủ tục lạc hậu xây dựng đời sống văn hoá mới. Năm 1992, Bộ VHTT đã công nhận Đền Mây là di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật. Để hoà nhập với sự phát triển của Phố Hiến - Hưng Yên, Đền Mây đang được quy hoạch, trùng tu, tôn tạo để bảo đảm phục vụ khách thập phương và nhân dân
trong vùng trong các ngày lễ hội.
|
;
·
Ch
0 Komentar