Phạm Vĩnh Thắng
Phóng sự ảnh (tiếp theo)
Phạm Vĩnh Thắng
Sáng sớm nay mở Blog gia đình Phạm Vĩnh 53 Lãn Ông, thấy bài viết của vợ chồng cháu đích tôn Phạm Tuấn Minh với những lời tâm huyết thật cảm động tưởng nhớ về người ông kính yêu cụ Phạm Vĩnh Quang.
Chỉ còn đúng 30 ngày nữa là đến ngày giỗ bố tôi cụ Phạm Vĩnh Quang, tôi chọt nhớ tới ngày cuối cùng của cụ trước khi ra đi vĩnh viễn.
Ngày 1 Tết Tân Mùi (1991)
8h, vợ chồng tôi đến chúc Tết bố mẹ và cũng là trực theo kế hoạch đã được mấy anh em phân công trước đó. Lúc này hai cụ đang ở nhà anh chị Kim Anh (Đoàn Hải). Do chúng tôi đến muộn một tiếng theo như đã hẹn nên cả nhà chị Kim Anh đã đi đến nhà nội chúc Tết, chỉ còn hai cụ ở nhà.
Vừa đến nơi cụ bà bảo cậu xem bố thế nào hôm qua ông ấy bị sốt đấy. Lúc đó cụ ông đang nằm trên giường đắp một cái chăn bông to tướng, bên trong còn có một cái quạt thổi hơi nóng hầm hập. Khi tôi dìu cụ vào nhà vệ sinh, lúc quay ra cụ cn ngoái đầu lại nhìn vào cái đèn, ra ý chưa tắt. Một lúc sau cụ lại chỉ vào bàn chân rồi chỉ dần lên đến đầu gối. Tôi linh cảm là cái chết đang đến từ từ, bắt đầu từ đôi chân như người ta vẫn nói. Tôi lấy đôi giày sưởi bằng điện mà tôi đem từ bên Đức về, lồng vào hai bàn chân của ông.
12h, chị Nhu đến thay tôi ăn Tết và trực trông nom bố mẹ.
16h, đang ngồi cùng anh Vĩnh Ngọc ở phòng khách nhà tôi trên phố Hạ Hồi bàn chuyện lo xa cho bố, cháu Đoàn Ngọc Khanh con chị Anh đến bảo cô Nhu nói các chú đến ngay, ông nguy lắm rồi. Ngay tức khắc anh Ngọc quay lại nhà chị Anh thu xếp công việc, còn tôi và cháu Khanh phóng thẳng vào bệnh viện Việt Xô gọi cấp cứu.
Hôm đó là ngày Tết bệnh viện vắng vẻ lắm, tôi vào thẳng phòng trực xin xe cấp cúu, rồi xuống đội xe chúc Tết đưa một hộp mứt, một chai rượu và một ít tiền mừng tuổi gọi là.
Sau khi biết tôi là em chồng chị Đỗ Kim Chi vợ anh Vĩnh Di, người trực đội xe nhiệt tình lắm cho xe đi ngay. Ông ấy còn bảo trước đây cũng có lần đã nhờ cậy sự giúp đỡ của chị Kim Chi, khi chị ấy còn làm Trưởng khoa tim mạch của bệnh viện.
Cũng may nhờ danh tiếng bà chị dâu trưởng và sự can thiệp có hiệu quả của chú Phạm Vĩnh Tiến lúc đó đang là Vụ phó Ban khoa giáo trung ương Đảng với lãnh đạo bênh viện,mà mọi việc tiếp theo ở bệnh viện Việt Xô được thuận lợi hơn, không tốn kém lắm ngoại trừ tiền lệ phí theo qui định của bênh viện.
17h, lúc ra xe cấp cứu, cụ Quang còn chỉ vào chiếc giường ngủ trên đó có một gói tiền nhỏ khoảng 80 đồng, tôi đưa cụ bà. Rồi cụ ông được đưa thẳng vào khoa cấp cứu của bênh viện, lúc đó trời cũng đã tối.
19h, các con cháu lần lượt vào thăm. Một lát sau bà Nguyễn Thị Lan, mẹ vợ tôi nghe tin cũng vào ngay. Trực đêm hôm đó là ông TS.Niệm tốt nghiệp ở Hungari về, một người quen của bà đã nhiệt tình chăm nom săn sóc cụ Quang.
21h, cụ Quang còn giục mẹ vợ tôi “cô về đi, trời tối rồi”. Sau đó mọi người ra về để còn thay nhau trực những ngày sau, chỉ còn tôi và chị Nhu ở lại đêm đó.
21h hơn, nếu tôi nhớ không nhầm thì trước khi tiêm thuốc ngủ một chút, cụ Quang ú ớ gọi tên anh Di, chị Lan và anh Hải (anh Di ở Sài Gòn, chị Lan ở Thái Nguyên, còn anh Vĩnh Hải đang ở Hải Phòng).
Ngày 2 tết Tân Mùi
3h, chị Nhu giục tôi đi ngủ để mình chị thức, lúc đó vì đã sang ngày hôm sau lại đã quá giấc rồi chẳng buồn ngủ nữa, tôi ngồi nán lại bên giường bố.
Một lúc sau thấy người và chân tay của cụ cứ giật giật, tôi và chị Nhu cuống lên, tôi vội chạy ra ngoài gọi bác sĩ trực.
Sau khi khám nghiệm họ nói ông đã qua đời và mời chúng tôi ra ngoài để các nhân viên làm nhiệm vụ.
3h15, cụ Phạm Vĩnh Quang đã vĩnh biệt cuộc đời ở tuổi 86.
Chị Nhu òa lên khóc nức nở, còn tôi lặng lẽ đứng ngoài hành lang nhìn ra màn đêm lạnh giá mà nước mắt không chảy được, cố giữ vẻ bình tĩnh.
5h30, hầu hết con cháu ở Hà Nội đều có mặt để đưa cụ Quang vào nhà lạnh, chuẩn bị cho lễ tang sau đó mấy ngày.
7h, Khi anh em chúng tôi về tới nhà chưa kip nói gì cụ bà đã hỏi ông ấy đi rồi à, sao nhanh thế. Mới chỉ nghe thấy mẹ nói vậy, tôi đã vội quay ra góc sân bật khóc nấc lên thành tiếng, nước mắt lã chã chảy thành dòng.
Lúc này mới thực sự là giây phút tôi xúc động nhất, mới thực nhận ra một điều mà chỉ mới đây thôi vẫn chưa nhận ra rõ nét là mình đã mất bố thật rồi.
Cảm giác này thực ra đã manh nha từ những năm khi bố mẹ tôi đã già yếu, đôi lúc cứ rình rập trong tôi. Nhiều lần nhất là những đêm khuya vắng vẻ yên tĩnh, đang nằm trên giường ngủ thật đó mà tôi cứ có cảm giác như sắp có một tin dữ về bố mẹ mình.
Nhưng lần này thì chẳng có ai báo tin cả, mà chính tôi được chứng kiến cái giây phút bố tôi vĩnh viễn ra đi, vĩnh biệt cõi đời này.
Ngày 6 tết Tân Mùi,
9h30 dưới sự điều hành của anh “trưởng thứ” Phạm Vĩnh Ngọc, tang lễ cụ Phạm Vĩnh Quang với sự có mặt đông đủ con cháu đã được tổ chức trang nghiêm tại bệnh viện Việt Xô, Hà Nội. Ông phụ trách trách hành chính cơ quan tôi dự đám tang về, đứng giữa sân trụ sở nói oang oang vẻ ngạc nhiên người đến viếng đông lắm, cứ như là vào Lăng viếng Bác.
Đúng là ông ấy có phần ví von nhưng sự thực là đông lắm, vì lúc đó hầu như các con vẫn còn đang công tác. Đông nhất là cơ quan ngành giao thông của anh chị Ngọc Phi, ngày đó anh ấy đang làm Giám đốc một công ty đường bộ có quan hệ rộng rãi với nhiều đối tác trong Nam ngoài Bắc.
Thế mà thấm thoát đã được 16 năm ngày bố tôi qua đời.
Ngày 9.12.2006
Anh em chúng tôi đã tổ chức bốc mộ mẹ tôi cụ bà Phạm Thị Yến và hợp nhất hai cụ vào một ngôi mộ mới xây tại khu A Nghã trang Văn Điển, Hà Nội.
Sắp đến ngày giỗ cụ Phạm Vĩnh Quang (2 Tết Đinh Hợi, tức 18.2.2007), tôi viết đôi dòng về ngày cuối cùng của cụ để các con cháu xa gần cùng nhơ, cũng là mong muốn góp phần ghi chép lại một sự kiện trong kho lịch sử của dòng họ nhà Phạm Vĩnh Quang, 53 Lãn Ông Hà Nội
ĐỂ “HÃY SỐNG THẬT VỚI CHÍNH MÌNH”
PHẢI CHĂNG HÃY BẮT ĐẦU TỪ
TỰ MÌNH QUYẾT ĐOÁN
Mấy lần đọc xong, tôi cứ tự ngẫm mà chưa dám hỏi “Phải chăng đó là những điều tâm niệm rút ra từ chính cuộc đời của bác trưởng nam Phạm Vĩnh Di” về các mối liên hệ được thua của cuộc đời, giưã ham muốn và bệnh sĩ, giữa cái vô cùng và hữu hạn, giưã cái có thể và không thể, giữa cái vốn kiến thức phong phú và thực tiến muôn màu nhiều vẻ của đời thường, giưã nỗi niềm ưu tư và sự thanh thản, giữa điều có thể và không thể nói ra, giữa sự quyết đoán và chần chừ, …
Theo mạch logic ấy, lại đúng dịp chỉ còn mấy ngày nữa là đến ngày giỗ cu Phạm Vĩnh Quang, lại cứ tự vấn vào mình tôi liên tưởng đến mấy kỉ niệm dưới đây.
1. Cuối năm 1989, trở về sau gần bốn năm đi nhiệm kì đầu tiên tại Đại sứ quán Việt Nam ở CHDC Đức, từ đó tôi có dịp được gần bố mẹ hơn. Hằng ngày tôi hay ghé qua nhà 53 Lãn Ông thăm hỏi, thường là ăn cơm trưa với hai ông bà. Nhìn cảnh bố mẹ đã già có một đống con thật đấy mà phải sống một mình lại chẳng đủ tiện nghi, tôi cũng suy nghĩ lắm, nhưng bất lực chẳng thể làm gì hơn.
Phần sĩ diện mới về nhà vợ ngại nhờ vả, phần cũng không nhận thức được hết tầm ý nghĩa của danh hiệu này đối với bố tôi, phần thì sau đó tôi lại đi nước ngoài…nên hồ sơ cứ để đó, năm này qua năm khác, lâu dần tôi quên hẳn.
Nhưng đặc biệt là bố tôi không bao giờ nhắc tới chuyện này một lần nào nữa, mặc dầu các bạn cụ nhiều người đã được giải quyết.
Tính bố tôi là như thế đấy, rất tự trọng lại chẳng muốn làm phiền ai cả. Ngay trong quan hệ thông gia với nhà vợ tôi, dù biết bố vợ tôi thời đó đang là Phó Thủ tướng, Bí thư TW Đảng một chức vụ cũng cao đấy, nhưng ông chẳng một lời nhờ vả, mượn thế ỉ eo.
Lại nói tiếp bộ hồ sơ này với nét chữ nghiêng nghiêng rất đẹp của bố tôi, vẫn còn nguyên vẹn cho tới khi chuyển nhà về Võng Thị, Hà Nội tìm mãi chẳng thấy đâu, chắc là bị thất lạc lúc di chuyển.
4. Đầu tháng 12.2006 nhân chuyến bác trưởng nam Phạm Vĩnh Di ra Hà Nội để chủ trì việc xây mộ mới cho bố mẹ về ở cùng nhau. Lúc hàn huyên mấy anh em chúng tôi đều có một ý nghĩ rất giống nhau là sau khi Sài Gòn được giải phóng 1975, đã không thu xếp được cho bố một chuyến trở lại thăm Sài Gòn, đó là điều mà ông đã ao ước mấy chục năm ròng.
Thử hỏi trong số 9 người con chưa kể dâu rể, “cũng là ông nọ bà kia đấy chứ” đã có ai chỉ có một lần ra vào trong đó.
Có nhiều khả năng làm việc này lắm, đâu có khó nhưng nào có ai nghĩ tới. Này nhé, cùng nhau góp tiền mua cho ông không được một vé máy bay hay xe hỏa thì một vé ô tô cũng được lắm, sao không? Nhà có đến 8, 9 người con cơ mà, nào có phải ít ỏi gì đâu cơ chứ.
Dẫn ra những kỉ niệm trên của chính mình đối với bố, tôi tự nghĩ phải chăng những điều bất lực, sự hy sinh, nỗi niềm ân hận vì chẳng còn dịp nào nữa, sự sĩ diện ngại nhờ vả và sự mong muốn, tính vô trách nhiệm và sự quan tâm, giữa thời cơ và bỏ lỡ vận hội… đều là hệ quả tất yếu của sự không quyết đoán và tính do dự trong những giây phút cần thiết của chính mình.
Xét cho cùng cũng chính là do tự mình, hay do chính mình không quyết đoán mà ra đấy thôi.
Từ bài viết mà bác trưởng nam Phạm Vĩnh Di đã dẫn “Hãy sống thật với chính mình” rồi tự suy luận vào việc của mình, tôi rút ra một điều phải chăng để “Hãy sống thật với chính mình” có lẽ phải bắt đầu từ sự TU MÌNH QUYẾT ĐOÁN.
Như vậy thì bài mà bác trưởng nam Phạm Vĩnh Di đã dẫn ra “Hãy sống thật với chính mình” cũng thật là bổ ích (ít ra là đối với tôi) đấy chứ.
Phạm Vĩnh Thắng
Ông Phạm Vĩnh Ngọc trưởng nhóm con cháu cụ Phạm Vĩnh Quang ở Hà Nội vừa báo tin cho tôi biết, năm nay giỗ cụ Phạm Vĩnh Quang sẽ được tổ chức tại nhà ông vào ngày 2 Tết Đinh Hợi, tức ngày chủ nhật 18.2.2007.
Đây là lần giỗ thứ 16 kể từ ngày cụ qua đời (1991-2007).
Năm 2006 vừa qua, là 100 năm ngày sinh của cụ Phạm Vĩnh Quang (04.9.2006-04.9.2006). Rất tiếc vào dịp đó Blog gia đình Phạm Vĩnh 53 Lãn Ông chưa được cháu Phạm Tuấn Minh cho ra đời.
Vì thế còn ít con cháu nhớ tới ngày kỉ niệm đáng ghi nhớ này.
Năm nay theo gợi ý của chú Phạm Vĩnh Tiến dịp Tết này ngoài việc con cháu tổ chức giỗ, nên chăng có một hoạt động gì đó đơn giản mà có nội dung thiết thực.
Thiết nghĩ trên mạng Blog gia đình bắt đầu từ hôm nay các thành viên có thể gửi các bài thơ, những mẩu chuyện ghi lại những kỉ niệm ghi nhớ về cụ Phạm Vĩnh Quang qua những thời kì ở 53 lãn Ông thời trước năm 1945, thời kì tản cư ở Hữu Vĩnh, rồi sau này khi hòa bình lập lại 1954, thời kì sơ tán chống Mỹ…
Tôi nghĩ sẽ rất phong phú vì hai điều thuận lợi:
Một là hiện còn nhiều nhân chứng lịch sử là con cháu đã có những thời gian sống gần cụ Phạm Vĩnh Quang như các ông Phạm Vĩnh Di, Phạm Vĩnh Tiến, bà Phạm Kim Thoa, Phạm kim Anh, Phạm kim Nhu…; các cháu Đoàn Chiến Dũng, Vũ Anh Tuấn, Phạm Ngọc Cường, Phạm Vĩnh Minh Trang…từng được gần ông ở 53 Lãn Ông, được ông yêu quí đưa đón đi nhà trẻ, mẫu giáo…
Hai là con cháu cụ Phạm Vĩnh Quang tiềm ẩn nhiều tài năng đã xuất lộ và còn đang ẩn náu về các thể loại như thơ, văn, nhạc, họa, kể chuyện đời… như các ông Phạm Vĩnh Di (tác giả của nhiều bài báo đăng tải trên một vài tờ báo và tạp chí có tiếng), ông Phạm Vĩnh Ngọc (nhà nghiên cứu gia phả dòng họ Phạm), ông Phạm Vĩnh Tiến và các ông con rể Lê Nông, Đoàn Hải là những nhà triết lí sự đời; các bà Phạm Kim Anh (tác giả của nhiều bài thơ chưa cong bố) và kho tư liệu rông lớn Phạm Kim Nhu, Phạm Kim Lan…Ngoài ra còn có thể sư tầm những kỉ vật như thư từ, giấy tờ có lưu lại bút tích, chữ viết hoặc ảnh của cụ Quang…
Chỉ với hai điều đó tôi tin tưởng dù là người đã được sống gần cụ Phạm Vĩnh Quang nhiều năm, hay ít năm ít nhiều cũng có những kỉ niệm riêng với cụ, có thể chọn lựa đưa lên Blog để con cháu cùng hiểu về cụ Phạm Vĩnh Quang.
Tuy nhiên tôi cũng nhận thấy có một điều khó là kỉ niệm thì có đó, nhưng có khả năng viết hay không, có thời gian hay không để viết không phải là dễ. Ví như tôi vừa về hưu thật đấy, nhưng vẫn cảm thấy thiếu thời gian, còn nhiều công việc lắm.
Nhưng như ông anh trưởng Phạm Vĩnh Di đã nói “Blog là diễn đàn gia đình nên cứ viết, rồi cùng nhau góp ý trao đổi miễn là đúng sự thật, đừng hư cấu lịch sử”.
Như vậy thì dù có khả năng hay không sẽ không còn là trở ngại nữa, mà chỉ còn phụ thuộc vào sự nhiệt tình tham gia của mỗi thành viên mà thôi.
Tôi mới chỉ nghĩ ra hai điều thuận và một điều khó trên đây, nhưng chắc là có nhiều điều nữa còn đang tiềm ẩn trong mỗi thành viên mà tôi chưa nghĩ ra.
Rất mong được Blog quan tâm.
Phạm Vĩnh Thắng
Thế kỷ 20, thể kỷ đầy biến động với Phố Lãn Ông. Người người trên trái đất, ở Việt Nam còn sôi động hơn, vìệc sinh trú quán với mọi nguời sống trong thời đại này tất nhiên bị ảnh hưởng của thời cuộc. Cả bốn người con của cụ Tú cũng đều sinh ra ở 53 Lãn Ông, ngay cả cụ Tú Lễ cũng sinh ra và trưởng thành từ ngôi nhà này, những năm 1900 -1920 khái niệm đi nhà thương để sinh nở,còn xa lạ với người VN, có lẽ sau những năm 30, dân HN mới đựoc tiếp cận với nền Y học hiện đại ? (Đến những năm 1950 từ “Nhà thương“ vẫn còn thông dụng hơn từ bệnh viện).
Lễ thành hôn của Ô Bảo (Lần thứ 1 chắc chắn đuợc tổ chức ở 53 LÃN ÔNG, lần 2 năm 1947 đuợc tổ chức ở chiến khu Miền Đông, chỉ có 1 ngừoi duy nhất con cháu cụ Tú được dự đó là Bác Phạm vĩnh Tường người con trai thứ 3 của ông Bảo năm đó 19 tuổi, là ngừoi cháu trai đuợc Cụ Tú yêu nhất vì ông học giỏi,tốt nghiệp tú tài tiếng Trung, sống với nguời Hoa ở khu vực Chợ Lớn, là niềm hy vọng thay cụ nối nghiệp cha ông.Rất tiếc ông đã hy sinh tại mặt trận Thu Ba ở Kiên Giang tháng 3 năm 1954, khi đó bác Tường đã có quyết định ra Việt Bắc làm việc ở Tổ Hoa Vận của Phủ Chủ Tịch, tại Đại hội 2 ô. Lê Duẩn tiến cử bác Tường cho Hồ chủ tịch khi người cần 1 thư ký giỏi tiếng Hoa, nắm vững tình hình Hoa vận ở phía Nam, năm 1956 khi ra Hà Nội , ô.Duẩn có cho nguời đi tìm Bác Tường.
Với Bà Tú và Ô Quang(cả hai lần kết hôn) đều được tổ chức ở 53 LÃN ÔNG (1926,1935 ) điều này mọi người hãy tin vì lúc đó chưa có phòng cưới, khách sạn.
Với ông Hanh lễ thành hôn được tổ chức ở Làng Hữu Vĩnh -Ứng Hoà - Hà Tây vào năm 1949, đám cưới ông rước dâu tù Làng Sêu ( Mỹ Đức Hà Tây ) về Hữu Vĩnh đi bộ 7 km do bà Yến đi đón về ( Người viết bài này súng sính với bộ áo bluson dạ, quần gon, cũng đi đón dâu ), tuần trăng mật của ông rất thi vị, hiếm có - Đại diện nhà gái đưa bà Oanh về nhà chồng ở Quế Quyển xa 35 km đi bằng đò dọc vào chiều 28 tết năm Kỷ Sửu sang năm Canh Dần, ngày 29 tết ( tháng thiếu,không có ngày 30 ) lại suôi thuyền về Hữu Vĩnh trên đường về còn chứng kiến cảnh các anh Vệ quốc từ Công binh xưởng bên cạnh chùa Ba Đanh, ném “ thử “ lựu đạn xuống dòng sông Đáy thơ mộng, trong xanh, cá chết rất nhiều – lại có thực phẩm ăn tết ? . Ở Hữu Vĩnh còn có 1 đám cưới của bác Hà - bác Trúc,được tổ chức vào tháng 3 năm 1950 – mùa dưa chuột, đám cưới này thực đơn có thịt Dê là chủ đạo.
Các con của ô. Bảo đều được sinh ra ở mọi điạ phuơng, nơi ông hành nghề “ Lục Lộ “, những người con bà sau sinh ra ở nhũng nơi ông đóng quân, để đánh dấu những sự kiện sinh thành các con, ông lấy tên địa phưong để đặt tên con : Quy (Quy Nhơn), Định (Gia định), Viên (Viên Chăn), Cán (Căn Kớt *), Bắc (Pắc sế), Tường (Hà Nội), Thanh (Thà Khẹt) , Sa ( Sa vẳn nà khẹt), Ánh Hồng, Gieo Đu, Chỉnh Huấn, Thành Công (1955 ở Hà Nội) **. Sau này Bác Bắc cũng làm như ô Bảo, đặt tên các con là tên địa phuơng mình ở cữ như Hà (Nhị Hà - sông Hồng Hà Nội), Bình (Thái Bình), Nga (Nga Sơn) Hùng (Đoan Hùng)
Các con ô Bảo chỉ có bác Trinh (Định) nguời con trưởng, đựoc Cụ Tú, bà nội tổ chức đám cưới cho cháu đích tôn tại 53 LÔ, đây là đám cưới đầu tiên, duy nhất của các con ông Bảo được tổ chức tại ngôi nhà 53 với nghi thức “ Đời sống mới “ và cũng là đám cưới “ Tiệc trà “ đầu tiên . Năm 1946 ông Nguyễn Lương Bằng thay mặt đoàn thể đưa đ/c Nguyễn văn Trân đến 53 Lãn Ông để xin cụ Tú cho bác Bắc về làm dâu họ Nguyễn, nhà gái lúc đó chỉ có Cụ Tú và Ô Quang tiếp,đám cưới bác Bắc được tổ chức trong những ngày tháng HN chuẩn bị tiêu thổ kháng chiến . Đây cũng là lễ “ ăn hỏi “ đầu tiên của các cháu cụ Tú tại 53 L Ô
Các con Ô Quang,rất tiếc Bác Thoa không xác minh được nơi sinh ở nhà ( Lò Đúc – Lãn ông hay nhà Hộ sinh), còn 6.người con đếu sinh ở 167b Rue Henri d’Oléans Hà Nội, nay là 167 Phố Phùng Hưng. Henri d’Oléans ,viên quan ba người Pháp bị nghĩa quân của Nguyễn trí Phương tiêu dịêt khi đổ bộ từ bến Phà Đen lên bờ tiến đánh khu Đồng Thuỷ ngày nay . Sau khi Thành Hà Nội thất thủ để ghi công nên chính quyền thời đó lấy tên đặt cho một đường phố . Tên quan hai Henri Viere bị nghĩa quân “ Cờ Đen “ Hoàng nghĩa Phúc tiêu diệt thời kỳ tổng đốc Hoàng Diệu tự vẫn,mộ anh ta được chôn bên lề đường cạnh nhà thợ đạo Gia Tô ở làng Giảng Võ.
“ Nhà thương “ 167 là 1 nhà hộ sinh do bác sỹ Phạm văn Chương – Chương “ thọt “ điều hành, ông ta trở thành bác sỹ riêng của nhà 53, không hiểu có phải vì Ô Quang lúc đó là Sécrétaire à la Résidenee Supérieure au Tonkin, theo tôi có khả năng đúng, vì những nhà thương tư cũng cần có quan hệ thân thiết với quan chức đương thời, chả thế mà sau này ông ta làm Bộ trưởng Bộ Y tế thời chính phủ Trần văn Hữu ở miền Nam
Con ông Quang chỉ có mấy nguời được tổ chức ở nhà 53 là : Anh Di, Hải, Thắng, Tiến, còn những người con khác đám cưới tổ chức ở cơ quan là chủ yếu. Bác Thoa do chiến tranh, Xuân Đinh Hợi – 1947 bác Nông mới ra mắt gia đình vợ ở Hương Sơn Thạch Thành Thanh Hoá, nơi đây, năm đó tướng Nguyễn Sơn đẫ đến dự Đại hội nhà Văn Liên khu 4 và đã đọc tham luận về truyện Kiều tới gần 2 ngày trước các học giả danh tiếng như cụ Đặng Thái Mai Lúc đó mọi nguời mới biết khả năng văn học và tài hùng biện của tướng Nguyễn Sơn, xin lưu ý ông nói vo không giấy tờ không chuẩn bị trứoc. Ông cũng tổ chức thành công đại hội dân quân khu 4, người viết bài này cũng được tham dự do cụ Kiệm Chủ tịch Huyện Thạch Thành đèo xe đạp, sau này cụ là Chủ tịch Mặt trận Tổ Quốc tỉnh Thanh Hoá, ô Quang lúc đó là Phó Giám đốc Sở Kinh tế liên khu 4. Còn Phạm vĩnh Tiến ra đời ở nhà thờ Kiện Khê Hà Nam, bây giờ đi đến thị xã Hà Nam tới Nga ba đi Nam Định – Ninh Bình gặp một cây cầu, Cầu Đọ Xá qua cầu là đến Kiện Khê, tháp tùng bà Yến đến Kiện khê có chị Ất, chị Nhu.
* Nơi đây ông Phạm đăng Thành bị hổ 3 chân vồ năm 1926
** Cô ánh Hồng sẽ giải thích hộ