Hai chàng trai Hà Lan đạp xe gần 20.000 km đến Việt Nam

Hai chàng trai Hà Lan đạp xe gần 20.000 km đến Việt Nam

 Rick Keijzer, 21 tuổi và Sven Broekhuizen, 25 tuổi, tới Việt Nam sau hành trình đạp xe qua 24 quốc gia trên chặng đường dài gần 20.000 km.

Top 10 ngôi chùa đẹp nhất Việt Nam mà bạn nên đến một lần trong đời

Top 10 ngôi chùa đẹp nhất Việt Nam mà bạn nên đến một lần trong đời

 Việt Nam không chỉ nổi tiếng với phong cảnh thiên nhiên hùng vĩ mà còn sở hữu những ngôi chùa tuyệt đẹp, mang đậm giá trị văn hóa và lịch sử. Trong số đó, 10 chùa nổi tiếng ở Việt Nam dưới đây là những điểm đến không thể bỏ qua, nơi bạn có thể tìm thấy sự bình yên trong tâm hồn và chiêm ngưỡng vẻ đẹp kiến trúc độc đáo.

1. Chùa Bái Đính (Ninh Bình)

Chùa Bái Đính là một quần thể chùa lớn với kiến trúc đồ sộ, kết hợp hài hòa giữa nét cổ điển và hiện đại. Nơi đây nổi tiếng với nhiều kỷ lục như ngôi chùa lớn nhất Việt Nam, tượng Phật bằng đồng lớn nhất Đông Nam Á

Điểm nổi bật:

  • Kiến trúc độc đáo, nguy nga, tráng lệ.
  • Không gian rộng lớn, thoáng đãng, hòa mình vào thiên nhiên.
  • Nhiều công trình Phật giáo ấn tượng: Điện Tam Thế, Điện Pháp Chủ, tháp chuông...
  • Lễ hội chùa Bái Đính thu hút đông đảo du khách mỗi năm.

Lưu ý: Nên dành thời gian khám phá toàn bộ quần thể chùa, chuẩn bị trang phục phù hợp khi đến nơi linh thiêng.

2. Chùa Đồng Yên Tử (Quảng Ninh)

Chùa Đồng nằm trên đỉnh núi Yên Tử, được mệnh danh là “đất tổ Phật giáo Việt Nam”. Nơi đây không chỉ có cảnh quan hùng vĩ mà còn mang đậm giá trị lịch sử, văn hóa

Điểm nổi bật:

  • Vị trí độc đáo trên đỉnh núi, mây mù bao phủ quanh năm.
  • Kiến trúc cổ kính, tinh xảo, mang đậm dấu ấn thời gian.
  • Không gian thanh tịnh, yên bình, giúp du khách tìm lại sự cân bằng trong tâm hồn.
  • Hành trình chinh phục đỉnh Yên Tử và khám phá chùa Đồng là một trải nghiệm đáng nhớ.

Lưu ý: Chuẩn bị sức khỏe tốt để leo núi, mang theo áo ấm và giày thoải mái.

3. Chùa Tam Chúc (Hà Nam)

Chùa Tam Chúc là một trong những ngôi chùa lớn nhất thế giới, với diện tích lên đến hàng nghìn hecta. Nơi đây sở hữu cảnh quan thiên nhiên tuyệt đẹp, kết hợp hài hòa giữa núi non, sông nước và những công trình kiến trúc đồ sộ

Điểm nổi bật:

  • Quy mô hoành tráng, kiến trúc độc đáo, mang đậm dấu ấn Phật giáo.
  • Cảnh quan thiên nhiên hùng vĩ, sơn thủy hữu tình.
  • Nhiều công trình Phật giáo ấn tượng: Điện Tam Chúc, chùa Ngọc, nhà khách Thủy Đình...
  • Không gian yên tĩnh, thanh bình, giúp du khách thư giãn và tìm lại sự bình yên trong tâm hồn.

Lưu ý: Nên dành nhiều thời gian để khám phá toàn bộ khu du lịch tâm linh Tam Chúc.

4. Chùa Ba Vàng (Quảng Ninh)

Chùa Ba Vàng là một ngôi chùa nổi tiếng với kiến trúc độc đáo và không gian rộng lớn. Nơi đây không chỉ là điểm đến tâm linh mà còn là điểm du lịch hấp dẫn với nhiều hoạt động văn hóa, lễ hội

Điểm nổi bật:

  • Kiến trúc độc đáo, kết hợp giữa nét cổ điển và hiện đại.
  • Không gian rộng lớn, thoáng đãng, nhiều cây xanh.
  • Nhiều công trình Phật giáo ấn tượng: Đại hùng Bảo điện, lầu chuông, lầu trống...
  • Các hoạt động văn hóa, lễ hội đặc sắc.

Lưu ý: Tìm hiểu kỹ về các hoạt động và lễ hội của chùa trước khi đến.

5. Chùa Một Cột (Hà Nội)

Chùa Một Cột là một trong những biểu tượng của thủ đô Hà Nội. Ngôi chùa có kiến trúc độc đáo, nhỏ nhắn nhưng mang đậm giá trị lịch sử và văn hóa

Điểm nổi bật:

  • Kiến trúc độc đáo, chỉ có một cột duy nhất.
  • Vị trí trung tâm, gần các điểm du lịch nổi tiếng khác của Hà Nội.
  • Giá trị lịch sử, văn hóa sâu sắc.
  • Không gian thanh tịnh, yên bình giữa lòng thủ đô.

Lưu ý: Nên kết hợp tham quan chùa Một Cột với các điểm đến khác như Lăng Bác, Văn Miếu - Quốc Tử Giám...

6. Chùa Thiên Mụ (Huế)

Chùa Thiên Mụ là một trong những ngôi chùa cổ kính và nổi tiếng nhất ở Huế. Nơi đây không chỉ có kiến trúc đẹp mà còn gắn liền với nhiều câu chuyện lịch sử

Điểm nổi bật:

  • Kiến trúc cổ kính, uy nghiêm, mang đậm dấu ấn lịch sử.
  • Vị trí bên bờ sông Hương thơ mộng.
  • Tháp Phước Duyên là biểu tượng của chùa Thiên Mụ.
  • Không gian thanh bình, yên tĩnh, giúp du khách tìm lại sự an yên trong tâm hồn.

Lưu ý: Nên đi thuyền trên sông Hương để ngắm nhìn chùa Thiên Mụ từ một góc độ khác.

7. Chùa Linh Ứng Sơn Trà (Đà Nẵng)

Chùa Linh Ứng Sơn Trà là một trong những ngôi chùa đẹp nhất ở Đà Nẵng. Nơi đây không chỉ có kiến trúc độc đáo mà còn sở hữu tầm nhìn tuyệt đẹp ra biển và thành phố

Điểm nổi bật:

  • Kiến trúc độc đáo, kết hợp giữa nét cổ điển và hiện đại.
  • Vị trí trên núi Sơn Trà, view biển và thành phố tuyệt đẹp.
  • Tượng Phật Quan Âm lớn, uy nghiêm.
  • Không gian thanh bình, yên tĩnh, giúp du khách thư giãn và tận hưởng cảnh đẹp.

Lưu ý: Nên đến chùa vào buổi sáng sớm hoặc chiều muộn để ngắm bình minh hoặc hoàng hôn trên biển.

8. Thiền viện Trúc Lâm Đà Lạt

Thiền viện Trúc Lâm Đà Lạt là một trong những thiền viện lớn nhất Việt Nam. Nơi đây không chỉ là nơi tu tập của các tăng ni, phật tử mà còn là điểm du lịch tâm linh hấp dẫn

Điểm nổi bật:

  • Kiến trúc độc đáo, hài hòa với thiên nhiên.
  • Không gian thanh tịnh, yên bình, giúp du khách tìm lại sự cân bằng trong tâm hồn.
  • Cảnh quan thiên nhiên tuyệt đẹp, với hồ Tuyền Lâm thơ mộng.
  • Các hoạt động thiền định, yoga giúp du khách thư giãn và tìm hiểu về Phật pháp.

Lưu ý: Nên tìm hiểu về các khóa tu, thiền định của thiền viện nếu muốn trải nghiệm sâu hơn về Phật pháp.

9. Chùa Bửu Long (TP. Hồ Chí Minh)

Chùa Bửu Long là một trong những ngôi chùa đẹp nhất ở TP. Hồ Chí Minh. Nơi đây nổi tiếng với kiến trúc độc đáo, mang đậm phong cách Thái Lan

Điểm nổi bật:

  • Kiến trúc độc đáo, lộng lẫy, mang đậm phong cách Thái Lan.
  • Không gian rộng lớn, thoáng đãng, nhiều cây xanh.
  • Các công trình kiến trúc ấn tượng: chánh điện, bảo tháp, khu vườn...
  • Không gian yên tĩnh, thanh bình, giúp du khách thư giãn và tìm lại sự bình yên trong tâm hồn.

Lưu ý: Nên tìm hiểu về lịch sử và ý nghĩa của các công trình kiến trúc trong chùa.

10. Chùa Xiêm Cán (Bạc Liêu)

Chùa Xiêm Cán là một trong những ngôi chùa Khmer lớn và đẹp nhất ở Việt Nam. Nơi đây không chỉ là điểm đến tâm linh mà còn là biểu tượng văn hóa của người Khmer

Điểm nổi bật:

  • Kiến trúc độc đáo, mang đậm phong cách Khmer.
  • Không gian rộng lớn, thoáng đãng, nhiều cây xanh.
  • Các công trình kiến trúc ấn tượng: chánh điện, bảo tháp, khu vườn...
  • Các lễ hội, phong tục tập quán độc đáo của người Khmer.

Lưu ý: Nên tìm hiểu về văn hóa và phong tục tập quán của người Khmer trước khi đến chùa.

Hy vọng rằng, qua bài viết này, bạn đã có thêm cho mình những gợi ý về những điểm đến tâm linh tuyệt vời. Hãy dành thời gian đến thăm và trải nghiệm để cảm nhận được vẻ đẹp và sự thanh tịnh của những ngôi chùa này, bạn nhé!

Tổng hợp

Nhà bác học duy nhất Việt Nam thông thạo 26 thứ tiếng ở tuổi 25

Nhà bác học duy nhất Việt Nam thông thạo 26 thứ tiếng ở tuổi 25

 Ông được tôn vinh như 1 nhà bác học về ngôn ngữ bậc nhất thời nay, nhiều người phải kinh ngạc khi ông thông thạo 26 thứ tiếng cùng lúc ở tuổi 25.


Trương Vĩnh Ký (1837 – 1898), là nhà bác học, nhà văn, nhà ngoại giao, nhà giáo dục và nhà cải cách ngôn ngữ Việt Nam. Ông được coi là người tiên phong trong việc sử dụng và phổ biến chữ Quốc ngữ, đồng thời có nhiều tác phẩm quý giá về lịch sử, địa lý, văn học, từ điển và dịch thuật. Ông cũng là 1 trong 18 nhà bác học thế giới về ngôn ngữ của thế kỉ 19, được ghi tên vào Bách khoa Tự điển Larousse. Ở tuổi 25, Trương Vĩnh Ký đã thông thạo nhiều ngôn ngữ Đông Nam Á cũng như các ngôn ngữ khác trên thế giới, như các thứ tiếng: Campuchia, Thái Lan, Lào, Malaysia, Myanmar, Chăm, Ấn Độ, Trung Quốc, Nhật Bản, Anh, Pháp, Ý, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Hi Lạp, Latin…

nha-bac-hoc-viet-thong-thao-26-thu-tieng-luc-moi-25-tuoi-0

Tượng Trương Vĩnh Ký ở một góccông viên Thống Nhấtnhìn ra nhà thờ Đức Bà năm 1969 (hiện được đặt ởBảo Tàng Mỹ ThuậtTP.HCM).AD

Trương Vĩnh Ký từ lúc lọt lòng mẹ (6-12-1837) ở Cái Mơn, xã Vĩnh Thạnh cho đến lúc qua đời (1-9-1898) ở Chợ Quán, Sài Gòn đã trải qua bao cơn sóng gió. Cha của ông là Trương Chánh Thi, một lãnh binh của triều Nguyễn mất khi ông còn rất nhỏ. Cha mất sớm, nhưng Trương Vĩnh Ký được xem là thần đồng khi 3 tuổi đã thuộc làu Tam Kinh, 4 tuổi ông học viết, 5 tuổi (1842) đã cắp sách đến trường học chữ Nho, chữ Nôm với thầy giáo. Sau vài ba năm, ông thông suốt Minh Tâm Bửu Giám, đọc Tứ thư, Ngũ kinh, thuộc nhiều thơ Đường, thơ Tống...

Ngoài ra, theo lời những người thân hậu bối, lúc nhỏ ông còn thuộc nhớ nhiều bài ca dao dài mà người lớn không biết. Cậu bé Ký đọc sách mà người cha mang từ miền Trung vào như Nhất Thiên Tự, Tam Thiên Tự, Ngũ Thiên Tự, Minh Đạo Gia Huấn, thơ Đường, thơ Tống...

nha-bac-hoc-viet-thong-thao-26-thu-tieng-luc-moi-25-tuoi-2

Tượng Trương Vĩnh Ký được đặt tại 1 bảo tàng ở Bến Tre.

 

Năm 1846, Trương Vĩnh Ký được gửi cho 1 người Pháp tên Borelle (tên Việt Nam là Thừa Hòa) ở Cái Nhum (Vĩnh Long) để học tiếng Latin và tiếng Pháp. Sau đó, ông Thừa Hòa phải đi xa nên nhờ một người Pháp tên là Bouilleaux (tên Việt Nam là Cố Long) lo hộ việc nuôi dưỡng và học hành của cậu Ký. Năm Vĩnh Ký 11 tuổi (1848), ông được Cố Long gởi đến học tại Pinhalu (Phnom Penh, Campuchia). Tại đây, ông được cùng cùng hơn 20 học sinh khác đến từ nhiều nước khác nhau ở Đông Nam Á. Cũng tại đây, ông đã thông thạo hầu hết các thứ tiếng của các bạn học cùng như: Campuchia, Lào, Thái Lan, Myanmar, Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, Ciampois (Chăm)…

Ngoài việc học từ các bạn, ông còn tự học ở sách, từ điển trong thư viện của nhà trường. Các nhà ngôn ngữ học đương thời cho rằng Trương Vĩnh Ký đã tự tìm ra những quy luật ngữ pháp giống nhau, khác nhau của các tiếng nước ngoài để học nhanh và dễ dàng.

Năm 14 tuổi (1851), Trương Vĩnh Ký tiếp tục được gởi vào trường ở Poulo Penang (một hòn đảo nhỏ trên vùng Nam Dương, thuộc Malaysia). Trong khoảng thời gian 7 năm theo học tại đây, Trương Vĩnh Ký học chuyên ngữ Latin và Hi Lạp. Ngoài ra, ông còn học nâng cao các thứ tiếng khác như Ấn Độ, Anh, Tây Ban Nha, Malaysia, Nhật, Hi Lạp, Thái Lan, Pháp, Ý…Ông tự học tiếng Nhật, Ấn bằng cách cắt các báo cũ, rồi dùng phương pháp đối chiếu, diễn dịch mà tìm ra các mẹo luật văn phạm.

1

Chân dung Trương Vĩnh Ký và 1 bài báo viết về ông.

 

Cuối những năm 1880, Trương Vĩnh Ký đã xuất bản sách dạy tiếng Thái Lan, Campuchia.Đến năm 1892, ông soạn được ba bộ sách dạy tiếng Miến Điện (tức Myanmar ngày nay): Cours de langue birmane, Vocabulaire français-birman, Guide de la conversation birman[e]-français. Từ năm 1893, ông tiếp tục xuất bản sách dạy tiếng Lào, Malay, Tamoule (Tamil?), Ciampois (Chàm).

Năm 1874, Trương Vĩnh Ký đã được thế giới bình chọn là “nhà bác học về ngôn ngữ”, nằm trong danh sách 18 nhà bác học thế giới của thế kỷ XIX, được ghi tên vào các danh nhân thế giới trong Tự điển Larousse.

Ông cũng là người có công trong việc xây dựng và phát triển giáo dục, văn hóa và ngôn ngữ Việt Nam. Ông là tổ chức, quản lý tờ báo viết chữ Quốc ngữ đầu tiên mang tên là Gia Định báo (1865-1910). Ông cũng là người đề xướng việc thành lập Học viện Đông Dương (École française d'Extrême-Orient) năm 1898. Ông đã viết hơn 100 tác phẩm về lịch sử, địa lý, văn học, từ điển và dịch thuật, bằng nhiều thứ tiếng như tiếng Việt, tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Trung, tiếng La Tinh và tiếng Campuchia.

Ông mất ngày 1/9/1898 tại Sài Gòn, được an táng tại nghĩa trang Thành Đức. Sau này, mộ của ông được chuyển về quê nhà Cái Mơn. Nhiều nơi đã đặt tên theo ông như: Đường Trương Vĩnh Ký ở Sài Gòn, Trường Trung học Petrus Trương Vĩnh Ký ở Sài Gòn, Trường Tiểu học, THCS và THPT Vĩnh Ký ở quận Tân Bình, TP.HCM, Bảo tàng Trương Vĩnh Ký ở Bến Tre...

TheoSohuutritue

Người Việt duy nhất trên thế giới làm tướng của 2 quốc gia, được đặt tên đường ở cả Hà Nội và TP Hồ Chí Minh

Người Việt duy nhất trên thế giới làm tướng của 2 quốc gia, được đặt tên đường ở cả Hà Nội và TP Hồ Chí Minh

 Ông là Việt Nam duy nhất trên thế giới là ‘lưỡng quốc tướng quân’, được phong hàm tướng ở cả Việt Nam và Trung Quốc. Tên của ông được đặt cho 2 con đường lớn ở cả Hà Nội và TP.HCM.


“Lưỡng quốc tướng quân” Nguyễn Sơn (1908 – 1956), là con trai của Nguyễn Văn Đức – 1 nhà giáo dục và chính trị gia. Nguyễn Sơn thuộc thế hệ những chiến sĩ cộng sản đầu tiên của cách mạng Việt Nam.

Nguoi-Viet-la-luong-quoc-tuong-quan-Vi-tuong-duy-nhat-tren-the-gioi-lam-tuong-cua-2-quoc-gia-2

Chân dung tướng Nguyễn Sơn khi còn trẻAD

Năm 1925, khi đang học Trường Sư phạm nội trú Hà Nội, tướng Nguyễn Sơn tham gia cách mạng và được kết nạp tổ chức Thanh niên Cách mạng đồng chí hội và được cử sang Quảng Châu dự lớp học chính trị đặc biệt.

Từ năm 1927 – 1945, tướng Nguyễn Sơn tham gia Hồng Quân, quân đội cách mạng Trung Quốc và chiến đấu chống lại quân đội phản cách mạng của Tưởng Giới Thạch. Ông lập được nhiều thành tích xuất sắc, được bổ nhiệm nhiều chức vụ như chủ nhiệm chính trị Sư đoàn 34, Quân đoàn 12 Hồng quân lúc mới 24 tuổi.

Năm 1934, ông được bầu làm Ủy viên Trung ương của nước Cộng hòa Xô viết Trung Hoa. Ông được phong quân hàm Thiếu tướng và là người nước ngoài duy nhất được phong hàm tướng của Trung Quốc.

luong quoc tuong quan nguyen son 1

Năm 1945, Pháp mở rộng chiến tranh hòng đánh chiếm nước ta lần nữa, với lòng yêu nước, yêu quê hương, Nguyễn Sơn đã trở về Việt Nam tiếp tục tham gia chiến đấu. Ông được Chủ tịch Hồ Chí Minh cử làm Chủ tịch Ủy ban kháng chiến Nam Bộ và Nam Trung Bộ, chỉ huy các cuộc kháng chiến chống lại quân Pháp xâm lược.

Năm 1948, ông được chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phong quân hàm Thiếu tướng trong đợt thụ phong quân hàm cấp tướng đầu tiên của Việt Nam. Ông là người Việt duy nhất trên thế giới được phong hàm tướng ở cả 2 quốc gia.

 

Nguoi-Viet-la-luong-quoc-tuong-quan-Vi-tuong-duy-nhat-tren-the-gioi-lam-tuong-cua-2-quoc-gia-6

Năm 1950, Nguyễn Sơn quay lại Trung Quốc. Ông đảm nhiệm các chức vụ Phó Cục trưởng Cục Điều lệnh Bộ Tổng giám huấn luyện của Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc, Tổng Biên tập “Tạp chí huấn luyện chiến đấu” của Quận ủy Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc.

Mùa hè năm 1956, tướng Nguyễn Sơn bị bệnh ung thư. Vì nhớ Tổ quốc, quê hương, ông đã đề đạt nguyện vọng trở về Việt Nam và tạ thế tại Hà Nội ngày 21/10/1956. Để ghi nhớ công lao của ông, tên tướng Nguyễn Sơn đã được đặt cho 1 tuyến phố lớn ở Long Biên – Hà Nội và đường Nguyễn Sơn được đặt ở quận Tân Phú – TP.HCM.

Luong-quoc-tuong-quan-Nguyen-Son-va-nhung-dieu-chua-biet-492-1550977113-width470height525 (1)

Nguyễn Sơn được mệnh danh là “Lưỡng quốc tướng quân” bởi được phong quân hàm tướng của hai quốc gia. Ông được đánh giá là người văn võ toàn tài, có tài chỉ huy chiến đấu, huấn luyện quân sự và công tác chính trị. Ông còn có tài diễn thuyết và yêu thích văn hóa dân gian. Ông luôn dạy con chống chiến tranh, giành hòa bình, hữu nghị và Tổ quốc trên hết.