Chuyện riêng tư...

Hôm nay 5.7, cách nay 54 năm tôi nhập ngũ. Trải qua gần 18 năm đời lính  và đã chuyển qua nhiều đơn vị có nhiều thủ trưởng (Sếp). Hôm nay tôi kể chuyện mấy vị chỉ trong khoảng thời gian những năm đầu nhập ngũ (1963-1969), có thể không theo thứ tự thời gian.
1.Sếp đầu tiên là cấp tiểu đội trưởng pháo cao xạ, xuất thân từ nông thôn vào bộ đội trước năm 1954 khi chiến dịch Điện Biên Phủ vào giai đoạn sắp kết thúc. Ông ít bộc lộ tình cảm, chăm chỉ, cương nghị và tận tình trong công việc.
Đặc biệt những giờ nghỉ, ngày nghỉ ít ỏi ông hay bắt chúng tôi đi lấy nước, phân, cuốc đất làm cỏ, trồng rau tăng gia sản xuất. Những công việc ấy thú thật cánh lính Hà Nội như tôi chúa ngại, nhưng nhờ thế tôi biết trồng rau, cấy lúa, tát nước và ủ phân...Ông là hình mẫu người cán bộ trong quân đội lần đầu tiên tôi được tiếp xúc.
2.Ông Trung úy chính trị viên trưởng đại đội cho tôi bài học nhớ đời "trong quân ngũ không thể cứ thích là làm". Số là chúng tôi vừa về đơn vị chiều thứ tư, tối thứ bảy chi đoàn thanh niên liên hoan cây nhà lá vườn chào đón lính mới.
Phát biểu kết thúc ông đã dành cho tôi lời cảnh báo “không được đem bài hát ủy mị, yếu đuối không lành mạnh vào quân đội”. Chả là đêm đó tôi hứng chí lên hát “Bài ca tâm tình người thủy thủ” của NS.Hoàng Vân, nói về nỗi lòng của người thủy thủ trước khi lên tầu chia tay người yêu ra đảo khơi xa thi hành nhiệm vụ.
3.Cuối năm 1963, tôi từ Thái Nguyên cùng với bốn lính mới người Hà Nội vừa hết lớp 10 phổ thông được gọi về học lớp Ra đa do chuyên gia Liên Xô giảng dạy tại Thậm Thình, Phú Thọ. Lớp có 10 học viên chỉ có bốn đứa tôi là lính mới tò te, còn lại là các sĩ quan từ chuẩn úy tới trung úy đến từ các đơn vị quân khu.
Cũng là học viên có một ông Trung úy thuộc hàng thủ trưởng, vì lúc đó tôi chỉ là binh nhì cấp thấp nhất trong quân đội. Nghe nói ông nhập ngũ từ năm 1950, đã từng làm liên lạc viên trung đoàn từ thời chống Pháp. Ông ấy như thư sinh học như chơi mặc dù rađa là lĩnh vực kĩ thuật mới mẻ thời đó. Ông không thích thể thao, không rượu chè, cử chỉ lịch lãm, không thích tụ tập đàm tếu cờ bạc tulơkhơ. Đôi khi ông nói với tôi ra điều dặn dò “Phải khiêm tốn đừng tỏ ra cái gì cũng biết, cứ tưởng người ta không biết, chỉ có điều họ biết đấy mà không nói ra mà thôi”.
4.Còn một ông trung úy nữa cũng là học viên, người nhỏ bé nhưng nổi tiếng là tay “khôn vặt nhất lớp. Kết thúc khóa học chúng tôi được lệnh kéo đài rađa to đùng hành quân đi thực địa, từ Thậm Thình (Phú Thọ) dừng chân ở Mỏ Chén (Sơn Tây) ít ngày rồi theo đường số 6 qua Hòa Bình tới nông trường Thảo Nguyên (Mộc Châu) rẽ lên Pa Háng gần biên giới Việt Lào. Con đường này từ thời chống Pháp chưa được sửa chữa là mấy, việc đi lại cực kì khó khăn.
Đến đoạn cua gấp đường hẹp chỉ vừa bánh xe, một bên là vực thẳm tất cả phải xuống chỉ để lại mình tài xế điều khiển. Chúng tôi còn đang chuẩn bị đã nhìn thấy ông ấy đứng cách xa tới vài mét từ lúc nào, hóa ra vị ấy đã nhảy xuống từ trước khi có lệnh có lẽ cũng đã hơi lâu.
5.Liền hai năm sau tôi là lính của một ông Đại đội trưởng người vùng biển Thanh Hóa vạn vỡ chắc nịch, giọng nói oang oang luôn chân luôn tay không nghỉ. Chúng tôi khốn khổ vì tính ông nóng như lửa lại luôn nghĩ ra việc hành lính, có mặt ở đâu là cánh lính phập phồng chờ “cơn thịnh nộ” bất ngờ của ông.
Chỉ cần không vừa ý là ông thổi còi báo động hành quân bất kể đêm, ngày. Có khi giữa trưa hè nóng nực hơn trăm lính đang ăn cơm ông ra lệnh hành quân tức tốc chỉ vì tiếng bát đĩa lách cách, nói chuyện ồn ào. Thế là quân ta buông ngay bát đĩa, vội vàng khoác ba lô đeo súng cuốc bộ, chạy theo ông mấy km bở cả hơi tai. Ấy vậy khi về vẫn phải quên mệt, lau mồ hôi cố nuốt cho xong xuất cơm dở dang chuẩn bị đến giờ tập luyện tiếp theo.
6.Năm 1966 đơn vị đóng quân ở Hương Canh, Vĩnh Yên một lần thay phiên gác tầm 3 giờ sáng, khí trời mùa hè nhưng mát rượi chúng tôi nán lại vài phút tán chuyện ngỏ ý ca ngợi ông Trung úy đại đội trưởng hiền lành lúc nào cũng cười cười ít nói.
Bất ngờ ông đi kiểm tra gác từ đầu ngõ đi tới, vừa đi vừa lẩm nhẩm “chuyện làm quà gì đấy”. Mà đã nói đến “chuyện làm quà, nghĩa là ông có hàm ý có chuyện nói xấu gì đây. Rõ khổ vì tính đa nghi thâm thúy của ông, cho tới vài năm sau tôi không ngừng bị để mắt tới.
7.Năm 1965 đóng quân ở Hữu Lũng (Lạng Sơn), các huyện Dĩnh Kế, Việt Yên, Thuận Thành, Mai Xiu (Bắc Giang cũ). Ông Trung đội trưởng là người cực kì tỉ mỷ từng động tác, say mê nghề cơ khí lúc nào trên tay cũng kìm với búa, sắt với thép...Ông kín tiếng đến mức đáng sợ, không bao giờ moi được tin gì từ ông ấy.
Tôi là tiểu đội trưởng dưới quyền ông hai năm, ông ấy biết rất rõ tôi là dân Hà Nội ở phố Lãn Ông đã nương nhẹ nhiều việc nặng nhọc. Mãi tới năm 2010 cùng mấy đồng đội cũ về Hưng Yên thăm khi ông đã qua tuổi 72. Lúc đó ông mới tiết lộ điều trước đây tôi chưa từng được nghe "trước khi vào lính đã từng là thợ của một xưởng in ở phố Hàng Bồkhông lạ gì ngôi đình Phúc Kiến phố Lãn Ông".
8.Năm 1967 khi Trung đội tôi đến đóng quân ở khu vực nhà máy Suytpe phốt phát Lâm Thao, Phú Thọ ông Trung đội trưởng mới có tên là Mại vóc dáng thấp lùn nhất đại đội. Nhưng ông lại có cái tên đầy thách thức “Cao Nhất Mại”, hoàn toàn trái ngược với vóc dáng ngoài đời.
Ngày hành quân vào Vinh (Nghệ An) đơn vị dừng xe ở đường Láng dưới hàng cây xà cừ xanh rờn ngụy trang, ông chủ động xin cấp trên cho tôi về qua nhà vài tiếng. Khỏi nói tôi mừng đến mức nhớ mãi tới tận hôm nay, vì thời chiến về nhà được coi là một món quà ao ước đời lính.
9.Năm 1968, tôi là trung đội phó trung đội độc lập thuộc Đại đội chỉ huy sư đoàn pháo cao xạ bảo vệ cầu Phủ Lạng Thương (Bắc Giang), khi chuyển về làng Tó Đông Anh (Hà Nội) ông Đại đội trưởng mới hát thì không hay nhưng lại rất mê hát.
Thế là mỗi khi có cơ hội bất kể hình thức nhỏ to cỡ nào ông cũng bắt các tiểu đội, trung đội lần lượt thi nhau hát ‘cây nhà lá vườn” để ông chấm. Thỉnh thoảng ông lại bắt lính lập sân khấu ngoài trời thắp đèn mangson, cử người cảnh giới máy bay Mỹ tổ chức đêm văn nghệ quần chúng thu hút bà con quanh vùng.
10.Sau tết Mậu Thân 1968, Mỹ ném bóm hạn chế từ vĩ tuyến 17 (Thanh Hóa) trở vào chúng tôi từ làng Tó (Đông Anh) được lệnh vào sân bay Sao Vàng (Thọ Xuân, Thanh Hóa) căng bạt đóng quân dưới tán lá cây cà phê tầm một tháng đi tiếp vào Thanh Chương (Nghệ An). 
Gần cuối năm 1969 chỉ sau vài ngày Mỹ tuyên bố ngừng ném bom hoàn toàn miền Bắc, chúng tôi từ Yên Thành (Nghệ An) hành quân ra Đông Sơn (Thanh Hóa) nghỉ ít lâu rồi lên tàu hỏa ra sân bay Kép (Bắc Giang).
Ông Trung đội trưởng lúc này là người Trực Ninh (Nam Định) đã có vợ con ở quê vốn là thày giáo trường làng nói năng dí dỏm, từ tốn, nhẹ nhàng, ngắn gọn nhưng khúc triết không “vòng vo, hoa lá cành”. Việc nhỏ, to khi cần ông đều lên hai ba phương án kĩ càng, ghi chép cẩn thận rồi cứ theo đó mà làm đâu ra đấy.
Vin vào cớ tôi là cấp phó cần bàn bạc công việc hàng ngày, đến đâu hễ ở nhà dân là ông luôn bắt tôi đến ở cùng nhà. Nhớ hồi ở Việt Tiến, Việt Yên (Bắc Giang cũ) chủ nhà có cô con gái xinh đẹp sắp về Hà Nội vào Đại học sư phạm (Cầu Giấy). Biết các cụ chủ nhà ưu ái có bát óc đậu phụ nóng hổi, củ khoai, củ sắn luộc, bắp ngô nướng hay khúc mía nhà cũng để phần tôi. Thậm chí đi tập huấn Trung đoàn vài ngày cũng cho cậu con trai 14,15 tuổi đạp xe mấy km đón tôi về ăn cỗ với gia đình xong xuôi lại chở đi. 
Biết chuyện, phòng tôi "thả thính" cậy thế là xếp lại hơn tuổi ông hay ẫm ờ đe nẹt “Nhớ đấy, về Hà Nội mà lấy vợ. Đừng vớ vẩn”. Ở Kép vài tháng tôi chia tay ông về trường huấn luyện đóng ở dốc Vác gần Vân Đình (Hà Đông cũ), rồi mấy tháng sau lên Vĩnh Yên ôn thi đại học. Mãi tới năm 2012 khi cô cháu nội được 2 tuổi, cũng là sau mấy chục năm bặt tin chúng tôi mới nối lại liên lạc. Tết năm ấy tôi dẫn “bầu đàn thê tử” về thăm ông, ra điều trình diện nhờ ông “quản chặt ngày ấy” mà tôi có được như ngày nay.
Tết Đinh Dậu vừa rồi ông gọi điện hỏi thăm, nhắn thu xếp về chơi đã qua tuổi 80 bệnh tật sức yếu.
11.Từ cuối năm 1969 tới 1974 tôi học đại học ở Vĩnh Yên, đại đội trưởng học viên khóa tôi là một ông Đại úy rất mê thể thao đặc biệt là bóng đá. Thế là luôn luôn có những trận thi đấu sôi nổi nội bộ đại đội với nhau, hoặc với các khoa khác.
Nhờ thế mà tôi gặp may  trận bóng đá quôc tế nào ở Hà Nội, nếu ngỏ ý xin là ông cho về ngay để đi xem cũng chỉ vì là cầu thủ bóng đá của đơn vị. Mỗi lần về nhà tính ra chỉ được một ngày rưỡi cả đi về, tầu xe vất vả đêm hôm nhưng được thăm vợ con, lại được xem bóng đá thật là lợi cả đôi đường.
Chỉ sơ sơ thế thôi đã thấy mỗi Sếp tôi từng gặp chỉ trong một giai đoạn ngắn như thế đã mỗi người mỗi vẻ, mang những cung bậc khác nhau “tận tình, chu đáo, nhẹ nhàng, cẩn thận, nóng nảy, kín tiếng, đa nghi, mô phạm, ưa thích thể thao văn nghệ, tinh ranh...”.
Giờ đây đôi khi rỗi rãi tôi lại tự hỏi “Liệu có bao nhiêu điều hay, dở từ họ đã nhập vào tôi?”. Xin thưa có lẽ là tất cả, nhưng mức độ ít nhiều có khác nhau. Còn hỏi từ bao giờ, thú thực tôi cũng chẳng biết từ khi nào.
Vĩnh Thắng.
 A1/Bốn chúng tôi, ảnh chụp 1964. A2,3/ trên mạng. A.4,5/ Qua phà sang Hưng Yên thăm Xếp. A.6,7/ Thăm Xếp ở Trực Ninh.

Previous
Next Post »
1 Komentar
avatar


Cậu Thắng "nhớ dai" thật. Bao nhiêu năm, bao nhiêu sếp mà Cậu vẫn nhớ từng chân tơ kẽ tóc.

Nhưng mà Cậu ơi, sếp chứ kg phải xếp đâu ạ.

Balas