Kỳ I: Nhớ ngày 18-3
Hôm nay mười tám tháng ba
Chúng cháu tưởng niệm ngày Bà ra đi
Thành tâm khấn Phật, cầu Trời
Ông Bà chứng kiến cháu con thật lòng
Bà tôi hiệu diệu Sắc Thân
Phả tường Bồ Tát, Phật ban trên đời
Bà rằng kiếp trước là Người
Cận kề bên Phật nên thời không quên
Mọi việc phát triển đều đều
Con cháu, chắt, chút bầu đoàn Bà ơi!
Cõi Niết bàn, Bà mỉm cười
Mong con cháu khoẻ, thuận hoà, vui tươi
Thế giới của Bà là "Phật và Thơ". Thời trẻ, Bà thường cùng em ruột là bà Đỗ long Giang đi lễ đền chùa nhiều nơi, sau này là đi với các cháu. Những phong cảnh đẹp, cảnh quan trang nghiêm nơi cửa Phật đã in sâu trong tâm trí Bà, nên việc "tức cảnh sinh thơ" là điều hiển nhiên. Bà thường làm thơ về đêm và cho là "Phật giáng bút". Thấm nhuần đạo lý "Từ bi hỉ xả" của nhà Phật, Bà năng làm việc thiện, an chay niệm Phật, cầu cho "quốc thái dân an".
Phụ thân Bà là người biết nghề thuốc và dạy học. Con nhà nề nếp, nữ công gia chánh giỏi, học ít nhưng đủ chữ để làm thơ, hiểu đời. Bà biết gọt củ Thuỷ Tiên, thêu thùa, làm tương rất ngon. Bà răn dạy các cháu vào khuôn phép, anh chị em phải nhường nhịn nhau, chăm học, nghe lời người trên. Trong kháng chiến 9 năm, việc đưa các cháu đi thăm đình chùa ở địa phương cũng là một cách rèn luyện "tu nhân tích đức", rèn luyện sức khoẻ - nhiều lúc đi bộ 5-7 km. Do đó những năm tháng gian khổ ấy nhưng chị em tôi không biết đến bệnh viện, bệnh xá (một phần cũng do khí hậu nông thôn thoáng đãng). Vì thực phẩm khan hiếm, Bà chia đều thức ăn nên con đàn cháu đống mà không hề cãi cọ, tranh nhau. Bà hiểu và gần gũi các cháu, có thưởng, phạt, khen chê thậm chí làm thơ khen. Sau đây xin trích một số bài thơ của bà:
Núi Tiên Mai (Ứng Hoà)
Tôi tản cư ở làng Hữu Vĩnh
Quả núi kia thiên định từ bao
Trên thờ Phật, cao cao chót vót
Gió vi vu, man mác vui thay
Ấy là làng Tiên Mai thờ Phật.......(1948-1950)
Sơ tán
Kể từ mùng tám tháng ba
Đang ở Hà nội đi ra ngoại thành
Bởi vì đang có chiến tranh
Cho nên tôi phải lánh mình ra đi
Phật đưa đến cửa từ bi
Tay chuông tay mõ tôi thì tụng kinh
Đêm ngày trong dạ đinh ninh
Cầu Trời khấn Phật nước mình vẻ vang. (1967-1969)
Thơ khen + mừng thày Tiến
Mười hai tháng sáu vừa rồi
Khen cho thày Tiến là người thông minh
Đảng viên kết nạp tự mình
Thức khuya dậy sớm tận tình biết bao
Học sinh nô nức tưng bừng
Đem hoa đến tặng để mừng thầy đây
Bạn thân ơi biết đâu nào
Thơm danh nức tiếng siết bao vui mừng
Chè ngon bánh ngọt vui thay
Trận mưa to quá ngập tràn đầy sân
Sau này vui sướng vô ngần. (Bà ngoại 1973)
Mừng chắt Toàn Thắng
Tháng năm Toàn Thắng ra đời
May thay giải phóng kịp thời làm sao
Lớn lên tất hẳn làm thầy
Quang Minh - Vĩnh Thắng vui mừng siết bao
Phúc đâu đưa đẩy cháu vào
Ân công truyền lại biết bao nhiêu đời
Chắt tôi con phải đợi thời
Ngoài 30 tuổi đường đời vinh quang
Nhà vườn mát mẻ sẵn sàng (Cụ ngoại 1975)
Kim Anh
4/5/2007
Hôm nay mười tám tháng ba
Chúng cháu tưởng niệm ngày Bà ra đi
Thành tâm khấn Phật, cầu Trời
Ông Bà chứng kiến cháu con thật lòng
Bà tôi hiệu diệu Sắc Thân
Phả tường Bồ Tát, Phật ban trên đời
Bà rằng kiếp trước là Người
Cận kề bên Phật nên thời không quên
Mọi việc phát triển đều đều
Con cháu, chắt, chút bầu đoàn Bà ơi!
Cõi Niết bàn, Bà mỉm cười
Mong con cháu khoẻ, thuận hoà, vui tươi
Thế giới của Bà là "Phật và Thơ". Thời trẻ, Bà thường cùng em ruột là bà Đỗ long Giang đi lễ đền chùa nhiều nơi, sau này là đi với các cháu. Những phong cảnh đẹp, cảnh quan trang nghiêm nơi cửa Phật đã in sâu trong tâm trí Bà, nên việc "tức cảnh sinh thơ" là điều hiển nhiên. Bà thường làm thơ về đêm và cho là "Phật giáng bút". Thấm nhuần đạo lý "Từ bi hỉ xả" của nhà Phật, Bà năng làm việc thiện, an chay niệm Phật, cầu cho "quốc thái dân an".
Phụ thân Bà là người biết nghề thuốc và dạy học. Con nhà nề nếp, nữ công gia chánh giỏi, học ít nhưng đủ chữ để làm thơ, hiểu đời. Bà biết gọt củ Thuỷ Tiên, thêu thùa, làm tương rất ngon. Bà răn dạy các cháu vào khuôn phép, anh chị em phải nhường nhịn nhau, chăm học, nghe lời người trên. Trong kháng chiến 9 năm, việc đưa các cháu đi thăm đình chùa ở địa phương cũng là một cách rèn luyện "tu nhân tích đức", rèn luyện sức khoẻ - nhiều lúc đi bộ 5-7 km. Do đó những năm tháng gian khổ ấy nhưng chị em tôi không biết đến bệnh viện, bệnh xá (một phần cũng do khí hậu nông thôn thoáng đãng). Vì thực phẩm khan hiếm, Bà chia đều thức ăn nên con đàn cháu đống mà không hề cãi cọ, tranh nhau. Bà hiểu và gần gũi các cháu, có thưởng, phạt, khen chê thậm chí làm thơ khen. Sau đây xin trích một số bài thơ của bà:
Núi Tiên Mai (Ứng Hoà)
Tôi tản cư ở làng Hữu Vĩnh
Quả núi kia thiên định từ bao
Trên thờ Phật, cao cao chót vót
Gió vi vu, man mác vui thay
Ấy là làng Tiên Mai thờ Phật.......(1948-1950)
Sơ tán
Kể từ mùng tám tháng ba
Đang ở Hà nội đi ra ngoại thành
Bởi vì đang có chiến tranh
Cho nên tôi phải lánh mình ra đi
Phật đưa đến cửa từ bi
Tay chuông tay mõ tôi thì tụng kinh
Đêm ngày trong dạ đinh ninh
Cầu Trời khấn Phật nước mình vẻ vang. (1967-1969)
Thơ khen + mừng thày Tiến
Mười hai tháng sáu vừa rồi
Khen cho thày Tiến là người thông minh
Đảng viên kết nạp tự mình
Thức khuya dậy sớm tận tình biết bao
Học sinh nô nức tưng bừng
Đem hoa đến tặng để mừng thầy đây
Bạn thân ơi biết đâu nào
Thơm danh nức tiếng siết bao vui mừng
Chè ngon bánh ngọt vui thay
Trận mưa to quá ngập tràn đầy sân
Sau này vui sướng vô ngần. (Bà ngoại 1973)
Mừng chắt Toàn Thắng
Tháng năm Toàn Thắng ra đời
May thay giải phóng kịp thời làm sao
Lớn lên tất hẳn làm thầy
Quang Minh - Vĩnh Thắng vui mừng siết bao
Phúc đâu đưa đẩy cháu vào
Ân công truyền lại biết bao nhiêu đời
Chắt tôi con phải đợi thời
Ngoài 30 tuổi đường đời vinh quang
Nhà vườn mát mẻ sẵn sàng (Cụ ngoại 1975)
Kim Anh
4/5/2007
0 Komentar