'Những cuộc gặp gỡ ở Việt Nam với 2 nhiếp ảnh gia Thụy Điển

'Những cuộc gặp gỡ ở Việt Nam với 2 nhiếp ảnh gia Thụy Điển

 Năm 1988, hai nhà báo người Thụy Điển Lasse Edwartz và Ulf Johansson chỉ nghĩ rằng mình sẽ có một chuyến công tác ngắn ngày ở Việt Nam. Nhưng không ngờ, mảnh đất hình chữ S đã trở thành nơi họ quay trở lại suốt hàng chục lần, trở thành chất liệu cho một bộ ảnh đồ sộ và một cuốn sách đong đầy tình cảm mang tên "Những cuộc gặp gỡ ở Việt Nam".


Người dân tại Đá Bàn, Tuyên Quang. (Ảnh: Lasse Edwartz)
Người dân tại Đá Bàn, Tuyên Quang. (Ảnh: Lasse Edwartz)

Năm 1988, hai nhà báo người Thụy Điển Lasse Edwartz và Ulf Johansson chỉ nghĩ rằng mình sẽ có một chuyến công tác ngắn ngày ở Việt Nam. Nhưng không ngờ, mảnh đất hình chữ S đã trở thành nơi họ quay trở lại suốt hàng chục lần, trở thành chất liệu cho một bộ ảnh đồ sộ và một cuốn sách đong đầy tình cảm mang tên "Những cuộc gặp gỡ ở Việt Nam".

Bước ngoặt định mệnh từ Mozambique đến Việt Nam

Năm 1988, tòa soạn báo Bohuslaningen (Thụy Điển) có kế hoạch cử phóng viên đến Mozambique tham gia một khóa tập huấn quốc tế. Mọi thứ đã được chuẩn bị kỹ lưỡng, cho đến khi ban biên tập thay đổi quyết định: “Chúng ta sẽ đến Việt Nam.”

“Có thể nói, đó là một bước ngoặt hoàn toàn bất ngờ, nhưng lại vô cùng đúng đắn,” nhà báo – nhiếp ảnh gia Lasse Edwartz nhớ lại. “Khi đặt chân đến Việt Nam, chúng tôi ngay lập tức cảm thấy đây là một sự lựa chọn hoàn hảo. Mọi thứ, từ con người, cảnh vật đến bầu không khí đều khiến chúng tôi thấy gắn bó và yêu mến ngay từ những ngày đầu tiên”

Từ đó, Lasse Edwartz và Ulf Johansson bắt đầu hành trình khám phá và ghi lại Việt Nam qua ống kính của mình – những gương mặt, câu chuyện và sự đổi thay của một đất nước đang chuyển mình mạnh mẽ.

“Mỗi cuộc gặp gỡ trong hành trình của chúng tôi đều để lại một trải nghiệm hết sức đặc biệt,” nhà báo Ulf Johansson chia sẻ. “Chúng tôi được gặp những con người với hoàn cảnh, điều kiện và cuộc sống hoàn toàn khác nhau, và mỗi người đều mang đến một câu chuyện riêng. Ví dụ, bức ảnh đầu tiên trong bộ sưu tập là hình một cô bé mặc trang phục giản dị, gần như là khoảnh khắc đầu tiên tôi chụp trong dự án này. Dù thời điểm ấy đầy khó khăn, nhưng mọi người vẫn toát lên tinh thần lạc quan, tích cực, luôn hướng về phía trước.”

62d4d019-b193-4cac-b3f8-ec36edc49ff0-rw-1920.jpg
Cô bé cùng em trai ở miền Bắc năm 1988 - Một trong những bức ảnh đầu tiên nhà báo Lasse Edwartz chụp tại Việt nam. (Ảnh: Lasse Edwartz)

Gặp “người chị gái” ở làng Đá Bàn

Một trong những nhân vật trung tâm của cuốn sách là bà Bình, người dân tộc Dao ở làng Đá Bàn (Tuyên Quang). Những ngày đầu tiên Lasse Edwartz và Ulf Johansson đến Đá Bàn trong khuôn khổ dự án hợp tác giữa Việt Nam và Thụy Điển – dự án Nhà máy giấy Bãi Bằng và vùng nguyên liệu xung quanh.

“Chúng tôi gặp bà lần đầu vào đầu những năm 1990, khi thực hiện một chuyến công tác trong khu vực nguyên liệu của nhà máy giấy Bãi Bằng – dự án hợp tác lớn giữa Việt Nam và Thụy Điển thời đó. Ấn tượng ban đầu về bà rất mạnh mẽ: một người phụ nữ tần tảo, thông minh, có ảnh hưởng trong cộng đồng và luôn toát lên tinh thần tích cực dù cuộc sống còn nhiều khó khăn,” nhà báo Lasse Edwartz kể.

Theo thời gian, mối quan hệ giữa họ không chỉ là giữa người chụp ảnh và nhân vật. “Bà Bình trở thành người thân, chúng tôi gọi bà là “chị gái”. Khi quay lại Việt Nam, việc đầu tiên luôn là ghé thăm làng Đá Bàn, thăm gia đình bà.”

Trong bộ ảnh, câu chuyện về bà Bình được là một điểm nhấn. Người phụ nữ này đại diện cho sức sống, nghị lực và vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam trong quá trình đổi thay.

“Bà Bình tình nguyện giúp chúng tôi hiểu về Việt Nam, đồng hành trong nhiều chuyến đi, và trở thành một cầu nối không thể thiếu với con người và văn hóa nơi đây. Mỗi lần gặp bà, chúng tôi lại cảm nhận được sự ấm áp, thân thiện và gần gũi đặc trưng của người Việt Nam,” nhà báo Ulf Johansson cho biết. “Điều đặc biệt là với bà, việc trò chuyện, chia sẻ hay tìm hiểu về đất nước dường như trở nên rất dễ dàng, bất cứ ai cũng có thể mở lòng và chia sẻ.”

nhiep-anh-gia.png
Bà Bình trên ảnh bìa cuốn sách ảnh "Những cuộc gặp gỡ ở ViệtNam". (Ảnh: Hằng Trần/Vietnam+)

Từ 1.800 bức ảnh đến một cuốn sách

Hơn ba thập kỷ đi về giữa Việt Nam và Thụy Điển, Lasse Edwartz và Ulf Johansson đã chụp hàng nghìn tấm ảnh. Nhưng ý tưởng cho bộ sưu tập ảnh và cuốn sách “Những cuộc gặp gỡ ở Việt Nam” được hình thành cách đây khoảng bốn năm. “Ban đầu, chúng tôi chỉ nghĩ đơn giản là lưu lại những kỷ niệm trong các chuyến đi đến Việt Nam. Nhưng càng chụp, chúng tôi càng nhận ra rằng những bức ảnh này có thể kể một câu chuyện lớn hơn, câu chuyện về tình hữu nghị, sự đổi thay và sức sống của con người Việt Nam,” nhiếp ảnh gia Lasse Edwartz chia sẻ.

Từ hơn 1.800 tấm hình, hai tác giả phải mất nhiều tháng chọn lọc, chỉnh sửa để giữ lại vài trăm bức tiêu biểu. “Việc biên tập đòi hỏi rất nhiều công sức. Chúng tôi phải cân bằng giữa yếu tố kỹ thuật và cảm xúc, đảm bảo mỗi bức ảnh vẫn giữ được linh hồn của nhân vật,” ông Johansson chia sẻ.

Cuốn sách được chia thành ba phần: phần đầu là ảnh đen trắng ghi lại giai đoạn cuối những năm 1980 đầu 1990, phần tiếp theo là ảnh màu – khi Việt Nam bước vào thời kỳ đổi thay, và phần cuối là câu chuyện đặc biệt về gia đình bà Bình – nhân vật đã gắn bó với hai nhiếp ảnh gia suốt nhiều năm.

nhiep-anh-gia-2.png
Hai nhà báo người Thụy Điển Lasse Edwartz và Ulf Johansson cùng cuốn sách ảnh ảnh "Những cuộc gặp gỡ ở ViệtNam". (Ảnh: Hằng Trần/Vietnam+)

Cầu nối từ ống kính đến trái tim

Khi triển lãm Những cuộc gặp gỡ ở Việt Nam được tổ chức tại Thụy Điển, khán giả đón nhận nồng nhiệt. Nhiều người từng đến Việt Nam xúc động khi được thấy lại hình ảnh quen thuộc. Những người chưa từng đến thì nói rằng: “Sau khi xem những bức ảnh này, chúng tôi muốn đi Việt Nam ngay.”

Tại Việt Nam, triển lãm ở làng Đá Bàn - nơi khởi nguồn cảm hứng của bộ ảnh - cũng gây xúc động mạnh. Người dân được nhìn thấy chính mình, ngôi làng của mình từ hơn 20 năm trước, giờ xuất hiện trong một cuốn sách quốc tế. “Khi quay lại, chúng tôi thấy nhiều gia đình treo trang trọng những bức ảnh đó trong nhà. Đó là phần thưởng lớn nhất cho chúng tôi,” ông Johansson nói.

“Chúng tôi không phải là những nhà ngoại giao, nhưng bằng nhiếp ảnh, chúng tôi đã làm công việc của những người kết nối,” ông nói. “Chúng tôi mong rằng những bức ảnh này sẽ giúp người Thụy Điển hiểu hơn về Việt Nam, và người Việt Nam thấy rằng mình luôn được trân trọng, yêu mến ở đất nước chúng tôi.”

Hai nhà báo cho biết họ vẫn đang tiếp tục thu thập thêm tư liệu mới, với mong muốn thực hiện phần tiếp theo của hành trình “Đá Bàn” như một chương nối dài của “Những cuộc gặp gỡ ở Việt Nam.”

801e5e32-070d-497a-99a5-e8cbe0e22e49-rw-600.jpg
Cuộc sống bình dị của người dân Việt Nam qua các thời kỳ xuất hiện giản dị, chân thực trong những bức ảnh của hai nhà báo - nhiếp ảnh gia Thụy Điển. (Ảnh: Lasse Edwartz)

35 năm với 15 chuyến đi và hàng ngàn bức ảnh, hành trình ấy không chỉ ghi lại sự thay đổi của Việt Nam, mà còn là câu chuyện về tình người, ký ức và tình bạn xuyên biên giới. Như chính tên cuốn sách “Những cuộc gặp gỡ ở Việt Nam” mỗi bức ảnh là một cuộc gặp, mỗi con người là một chương chuyện. Và có lẽ, hành trình ấy vẫn chưa khép lại./

TheoVietnam +

Những công trình biểu tượng mới đưa du lịch biển Vũng Tàu thăng hạng

Những công trình biểu tượng mới đưa du lịch biển Vũng Tàu thăng hạng

 

Sau sáp nhập vào TP.HCM, Vũng Tàu bước vào giai đoạn phát triển mạnh mẽ với vai trò cửa ngõ hướng biển của siêu đô thị 14 triệu dân, mở ra vận hội trở thành trung tâm du lịch nghỉ dưỡng hàng đầu phía Nam.

Bệ phóng hạ tầng mở đường cho du lịch bùng nổ

Chỉ cách trung tâm TP.HCM khoảng 100 km, Vũng Tàu từ lâu là điểm đến quen thuộc phía Nam, nổi tiếng với bãi cát trải dài, khí hậu ôn hòa và những công trình mang dấu ấn lịch sử. Năm 2024, địa phương đón hơn 16 triệu lượt khách, tăng 13% so với năm trước, cho thấy sức hút của thị trường du lịch.

Phao hoa bien Vung Tau(1).jpg
Vũng Tàu nổi tiếng với bãi cát dài, khí hậu ôn hòa và những công trình lịch sử.

Về hạ tầng giao thông, Vũng Tàu hưởng lợi lớn từ các dự án kết nối liên vùng. Quốc lộ 51 được mở rộng, cao tốc Biên Hòa - Vũng Tàu dài 53,7 km dự kiến hoàn thành cuối năm 2025 sẽ rút ngắn thời gian di chuyển từ TP.HCM xuống còn chưa đầy một giờ. Tuyến đường ven biển, hệ thống phà Cần Giờ - Vũng Tàu và đề xuất cầu vượt biển nối Cần Giờ - Vũng Tàu đang được nghiên cứu triển khai, hứa hẹn hình thành mạng lưới giao thông liên hoàn thủy - bộ. Bên cạnh đó, sân bay quốc tế Long Thành dự kiến vận hành giai đoạn 1/2026, mở rộng khả năng đón khách quốc tế và thúc đẩy dòng vốn đầu tư.

san bay Long Thanh 2   NGUON ATAD.jpeg
Hạ tầng giao thông phát triển giúp Vũng Tàu mở rộng kết nối và thu hút đầu tư. Ảnh phối cảnh sân bay Long Thành 

Những công trình biểu tượng đánh dấu bước chuyển của du lịch Vũng Tàu

Dấu ấn rõ nét của “Vũng Tàu mới” là dự án chỉnh trang trục đường Thùy Vân - Bãi Sau dài 3,2 km, công trình đầu tư công lớn nhất tỉnh phục vụ phát triển du lịch, khởi công cuối tháng 10/2024. Trên diện tích khoảng 17,06 ha, toàn bộ khu vực ven biển được cải tạo thành công viên, quảng trường và không gian cộng đồng mở - vừa phục vụ người dân, vừa nâng tầm điểm đến.

Nổi bật trong quần thể này là tháp Tam Thắng, công trình biểu tượng được ví như “ngọn hải đăng mới” của Vũng Tàu. Tháp gồm 143 trụ điêu khắc hướng ra đại dương, lấy cảm hứng từ ba đầu mũi thuyền tượng trưng cho ba làng cổ Thắng Nhất, Thắng Nhì, Thắng Tam - cội nguồn hình thành vùng đất. Đây không chỉ là công trình kiến trúc ấn tượng mà còn là nơi tổ chức sự kiện, triển lãm nghệ thuật, không gian sinh hoạt công cộng, góp phần làm phong phú đời sống tinh thần cho người dân và du khách. Tháp Tam Thắng do Tập đoàn Sun Group tài trợ xây dựng dành tặng biển Vũng Tàu, với mong muốn góp phần kiến tạo cảnh quan, mang lại trải nghiệm mới mẻ, diện mạo hiện đại cho vùng đất du lịch biển.

Thap Tam Thang Vung Tau(1).jpg
Tháp Tam Thắng được ví như “ngọn hải đăng mới” của Vũng Tàu, thu hút hàng nghìn lượt khách mỗi tối.

Bao quanh công trình là quảng trường trung tâm với cây xanh, đường dạo bộ và khu vực tổ chức lễ hội, tạo không gian mở để khách tham quan, tận hưởng không khí trong lành và hòa chung nhịp sống sôi động. Khi đêm xuống, ánh sáng nghệ thuật hòa cùng nhạc nước tạo nên khung cảnh rực rỡ, thu hút hàng ngàn lượt khách mỗi tối.

Dự kiến vận hành từ đầu năm 2026, công viên nước Sun World Vũng Tàu được xem là mảnh ghép hoàn thiện cho chuỗi sản phẩm du lịch khu vực. Tổ hợp có quy mô gần 15 ha, lấy cảm hứng từ văn hóa sông nước Nam Bộ, tái hiện hình ảnh chợ nổi, thương cảng cổ và những nét sinh hoạt đặc trưng miền Tây.

Sun World Vũng Tàu gồm bốn phân khu chủ đề: Cuộc sống sông nước miền Nam, Con đường tơ lụa trên biển, Dấu tích Óc Eo – Phù Nam và Rừng nhiệt đới Nam Bộ. Tại đây, du khách có thể trải nghiệm hơn 20 trò chơi nước đẳng cấp quốc tế, trong đó có đường trượt 10 làn đầu tiên trên thế giới, cùng chuỗi ẩm thực, mua sắm và biểu diễn nghệ thuật kéo dài cả ngày. Điểm đặc biệt của dự án là mô hình vận hành sáng – tối, hướng tới hình thành “điểm đến không ngủ” đầu tiên của vùng biển phía Nam. Sự xuất hiện của tổ hợp này hứa hẹn mang lại trải nghiệm du lịch mới và góp phần đa dạng hóa sản phẩm.

cong vien nuoc sun world blanca city (3).jpg
Công viên nước Sun World Vũng Tàu gần 15ha dự kiến vận hành từ đầu năm 2026. Ảnh phối cảnh 

Blanca City - đại đô thị mang đậm dấu ấn văn hóa biển

Nếu Tháp Tam Thắng và Sun World Vũng Tàu tạo nên diện mạo sôi động, thì Blanca City - đại đô thị biển quy mô 96,6 ha, tổng vốn đầu tư gần 37.000 tỷ đồng - được xem là biểu tượng dài hạn cho sự phát triển bền vững của du lịch Vũng Tàu. Dự án do Sun Group phát triển, được thiết kế bởi Aedas, hướng đến kiến tạo không gian sống và nghỉ dưỡng hiện đại, mang đậm dấu ấn văn hóa biển.

Kiến trúc Blanca City mang phong cách giao thoa giữa Pháp, Bồ Đào Nha và Việt Nam, lấy cảm hứng từ văn hóa hàng hải với các tòa tháp cao tầng tạo hình cánh buồm vươn khơi - biểu tượng cho tinh thần khai mở và thịnh vượng. Dự án phát triển đồng bộ hệ tiện ích gồm trung tâm thương mại mặt biển, chuỗi khách sạn quốc tế, trường học, y tế, 8 công viên cảnh quan và công viên nước Sun World Vũng Tàu quy mô gần 15 ha.

view tu bien du an blanca city.jpg
Blanca City là biểu tượng dài hạn cho sự phát triển bền vững của du lịch Vũng Tàu. Ảnh phối cảnh 

Từ những không gian công cộng giàu tính nghệ thuật đến tổ hợp giải trí và đại đô thị biển hiện đại, các công trình mới đang dần hình thành diện mạo khác biệt cho Vũng Tàu - năng động, sôi động nhưng vẫn giữ được bản sắc. Khi hạ tầng, dịch vụ và sản phẩm cùng đồng bộ, vùng biển này sẽ không chỉ là điểm nghỉ dưỡng cuối tuần quen thuộc, mà từng bước trở thành trung tâm du lịch biển quốc tế, nơi hội tụ giữa văn hóa bản địa, tiện ích hiện đại và tiêu chuẩn toàn cầu.

(Nguồn: Sun Group) 

Bí ẩn ngôi làng kỳ lạ chỉ sinh ra người lùn, không ai cao quá 1,2m

Bí ẩn ngôi làng kỳ lạ chỉ sinh ra người lùn, không ai cao quá 1,2m

. Sau khi kết hợp các tài liệu lịch sử và các chuyến tham quan thực địa, họ cho rằng nguyên nhân khiến dân làng nơi đây trở nên thấp bé có thể liên quan đến thực phẩm từ những năm 1930.

Ngôi làng kỳ lạ chỉ sinh ra người lùn, không ai cao quá 1,2 mét - Ảnh 6.

Có người phỏng đoán triệu chứng này là nhiễm khí độc khi người Nhật chiếm đóng nơi này. Nhưng trên thực tế, quân đội Nhật chưa bao giờ đặt chân đến vùng đất này. Năm 1997, một nghiên cứu cho thấy nồng độ thủy ngân cao trong đất, nhưng nó vẫn chưa được chứng minh có liên quan tới những triệu chứng lạ dân làng Yangsin mắc phải. Chính phủ Trung Quốc không phủ nhận sự tồn tại của ngôi làng nhưng cũng không cho phép khách người nước ngoài đến thăm. 

Ngôi làng kỳ lạ chỉ sinh ra người lùn, không ai cao quá 1,2 mét - Ảnh 7.

Các chuyên gia chưa thể tìm ra nguyên nhân gây "bệnh lùn" ở ngôi làng Yangsi.

Thời gian qua, có không ít người dân sống ở làng này dời xa quê hương bởi họ lo sợ hội chứng "ngắn người" ám ảnh. Tuy nhiên, hiện nay, thế hệ sau đã cao hơn thế hệ trước, dù chỉ một chút.

Ngày nay, ngôi làng được hoàn chỉnh với lực lượng cảnh sát và cứu hỏa riêng. Đồng thời, người dân ở đây còn quyết định xây dựng các ngôi nhà của mình theo văn hóa truyện cổ tích, biến nơi này trở thành điểm thu hút khách du lịch và tạo thu nhập cho bản thân.

Người dân sống ở đây dù ngoại hình nhỏ bé nhưng họ không ngừng vươn lên trong cuộc sống, nhiều người đã chịu khó học hành tử tế, có con đỗ đạt trường đại học danh tiếng và làm việc ở thành phố.

Trúc Chi (t/h Vietnamnet, Gia đình Việt Nam, VOV)


Lễ hội Katê: Khi con người biết cúi đầu trước trời đất và mỉm cười với nhau

Lễ hội Katê: Khi con người biết cúi đầu trước trời đất và mỉm cười với nhau

 Tháng Mười, nắng vàng như mật rót xuống miền cát trắng Khánh Hòa.

Từ những ngọn đồi khô cằn, gió mang theo hương muối, mùi lúa mới và âm vang trống Ginăng gọi con người trở về.

Đó là Katê - mùa lễ hội thiêng liêng nhất của người Chăm theo đạo Bà-la-môn, khi ký ức, niềm tin và lòng biết ơn cùng hội tụ trên những tháp gạch đỏ rực rỡ giữa trời cao nắng cháy.

Các vị chức sắc người Chăm tham gia lễ rước y trang về tháp Pô Klong Garai.

Katê - Khi con người trò chuyện cùng thần linh

Với đồng bào Chăm, Katê không chỉ là một lễ hội, mà là hành trình trở về với cội nguồn của vũ trụ và chính mình.

Trên các tháp Pô Klong Garai, Pô Rome, Pô Inư Nưgar… tiếng trống Ginăng hòa với kèn Saranai, đưa con người bước vào không gian của thần linh.

Các chức sắc Bà-la-môn (Acar, Po Adhia) cử hành nghi lễ cổ xưa: tắm tượng thần, thay y phục, đọc kinh bằng tiếng Chăm và tiếng Phạn. Khói hương quyện cùng gió biển. Từng giọt nước dâng lên tượng thần Siva, biểu tượng của sáng tạo, hủy diệt và tái sinh, như thay lời con người cảm tạ đất trời.

Ở đó, niềm tin không nằm trên cao, mà hòa vào từng bàn tay, từng bước chân của người hành lễ. Bởi với bà con người Chăm, thần linh không ở xa, thần linh ở trong đất, trong nước, trong hơi thở của mỗi người.

Đồng bào Chăm tấp nập trẩy hội Katê ở tháp Pô Klong Garai.

Khi đạo và đời cùng soi chiếu

Sau phần lễ trang nghiêm là phần hội rộn ràng.

Những thiếu nữ Chăm trong váy dài rực rỡ xoay tròn trong điệu múa Apsara mềm mại như nước. Tiếng trống, tiếng kèn hòa với tiếng cười của trẻ nhỏ, tiếng nói của du khách và những bàn tay nắm chặt nhau.

Lúc ấy, đạo hòa với đời, thiêng liêng hòa với trần thế.

Tín ngưỡng không còn là khoảng cách giữa con người và thần linh, mà trở thành sợi dây kết nối giữa người với người.

Katê, trong ý nghĩa sâu xa nhất, chính là ngày con người nhắc nhau sống tử tế hơn, biết tri ân hơn, và biết cùng nhau giữ gìn hòa khí của cuộc đời. Thờ thần không chỉ là thắp nhang, mà là thắp lòng biết ơn.

Màn biểu diễn múa quạt của đồng bào Chăm.

Khi văn hóa là dòng chảy, không phải di sản nằm im

Trên những ngọn tháp cổ, Katê vẫn được tổ chức mỗi năm suốt hàng trăm năm qua. Nhưng lễ hội không hề cũ. Nó thay đổi cùng con người, hòa cùng nhịp sống mới, trở thành lễ hội văn hóa - du lịch của toàn vùng.

Người Kinh, người Raglai, người Hoa cùng chung vui.

Những làng nghề truyền thống như Bàu Trúc (gốm) hay Mỹ Nghiệp (dệt thổ cẩm) được hồi sinh, khi du khách đến không chỉ để xem, mà để hiểu, để chạm tay vào văn hóa đang sống.

Katê dạy rằng: “Giữ văn hóa không phải để khoe, mà để sống với nó mỗi ngày. Phát triển không phải là bỏ lại quá khứ, mà là đi cùng quá khứ để quá khứ nở hoa trong hiện tại”.

Khi lễ hội là bài học về phát triển bền vững

Katê không chỉ là niềm tin tôn giáo, mà còn là triết lý phát triển bền vững của con người Chăm.

Trong thế giới hiện đại, khi nhiều giá trị đang bị xô lệch, Katê nhắc ta rằng một cộng đồng chỉ có thể lớn mạnh khi giữ được sự hòa hợp giữa con người - thiên nhiên - thần linh.

Nếu nhìn bằng con mắt của người làm chính sách, Katê chính là “bài học mẫu mực” về phát triển lấy con người làm trung tâm:

•   Mỗi người dân là chủ thể giữ gìn văn hóa.

•   Mỗi nghi lễ là một hoạt động gắn kết cộng đồng.

•   Mỗi giá trị tinh thần đều có thể trở thành sức mạnh kinh tế, du lịch và niềm tự hào.

Khi con người biết sống với lòng tri ân, thì cả xã hội sẽ phát triển trong nhân ái.

Triết lý sống của người Chăm: Tri ân - Tri túc - Tri hòa

Ba chữ nhỏ ấy - Tri ân, Tri túc, Tri hòa - là linh hồn ẩn sâu trong lễ hội Katê, và cũng là tinh túy nhân sinh của người Chăm suốt hàng trăm năm qua.

Tri ân - Biết ơn là gốc rễ của lòng người

Tri ân không chỉ là cảm ơn, mà là hiểu được ơn.

Người Chăm tri ân thần linh, nhưng đồng thời tri ân đất - nước - con người. Bà con dâng lễ vật không phải để xin, mà để nhớ: nhớ công trời đất, nhớ công cha ông, nhớ công lao động của chính mình. Khi ta biết ơn, ta sẽ thấy mình nhỏ lại, nhưng lòng mình rộng ra.

Tri túc - Biết đủ để sống an nhiên

Người Chăm không cầu giàu có, mà cầu đủ để sống tốt, sống vui.

Giữa miền cát khô, họ vẫn giữ được nụ cười. Giữa thiếu thốn, họ vẫn có Katê - mùa của đoàn tụ và biết đủ.

Người biết đủ sẽ không nghèo. Người không biết đủ, dù nhiều đến mấy, vẫn thiếu.

Tri hòa - Biết sống hài hòa với người, với đời, với thiên nhiên

Tri hòa là học cách lắng nghe.

Trong nghi lễ Katê, trong cuộc sống thường ngày, người Chăm tìm sự cân bằng giữa truyền thống và hiện đại, giữa người và người, giữa con người và vạn vật.

Người Chăm tin rằng: hòa không có nghĩa là yếu, mà là biết giữ cho lòng mình yên giữa sóng gió cuộc đời. Nếu tri ân giúp ta cúi đầu, tri túc giúp ta đứng vững, thì tri hòa giúp ta nắm tay nhau đi tiếp.

Khi Katê không chỉ là lễ hội của người Chăm

Chiều muộn, mặt trời đỏ rực rơi xuống tháp Pô Klong Garai.

Tiếng trống dần ngưng, khói hương tan vào gió biển. Người Chăm, người Kinh, du khách phương xa cùng bước xuống tháp, lòng nhẹ tênh.

Ngọn lửa Katê khép lại, nhưng không tàn. Nó trở thành ngọn lửa âm ỉ trong lòng người, nhắc ta nhớ rằng:

•   Phát triển phải có gốc rễ.

•   Hiện đại phải có bản sắc.

•   Và con người, dù ở đâu, dù theo tín ngưỡng nào, cũng cần biết cúi đầu trước trời đất và mỉm cười với nhau.

Thông điệp nhỏ

Lễ hội Katê không chỉ là lễ tạ ơn thần linh, mà là lời tri ân cuộc đời.

Vì khi con người biết ơn đất trời, biết đủ với những gì mình có, và biết hòa với người quanh mình, thì đó chính là hạnh phúc.

TheoKhanhhoa

Từ người bán kem dạo đến tiến sĩ sở hữu 700 sáng chế, thu hàng trăm triệu USD Lê Huyền

Từ người bán kem dạo đến tiến sĩ sở hữu 700 sáng chế, thu hàng trăm triệu USD Lê Huyền

 

Tiến sĩ Nguyễn Thanh Mỹ, người sở hữu hàng trăm sáng chế độc quyền, mang lại doanh thu hàng trăm triệu USD, là diễn giả khách mời tại lễ khai khóa năm 2025 của Đại học Quốc gia TPHCM.

Từ cậu bé bán kem dạo, lơ xe...

Mở đầu buổi nói chuyện, Tiến sĩ Thanh Mỹ hóm hỉnh nói: “Hôm nay, thầy cô và sinh viên sẽ là nạn nhân của tôi, vì sẽ phải nghe những câu chuyện cũ. Mong mọi người hãy tha thứ".

Ông Mỹ kể, ở công ty của ông mỗi tháng đều có những buổi trò chuyện về thành công, hạnh phúc và sự viên mãn. Trước khi đúc kết được những điều này, ông đã đi hỏi rất nhiều bạn trẻ, nhân viên và nhận lại câu trả lời thú vị.

Nhìn lại quá khứ, ông Mỹ cho biết mình từng trải qua đủ nghề: từ bán kem, lơ xe đến bán hàng tại chợ trời, đá bóng thuê. Mới 7 tuổi, ông đã mưu sinh giúp mẹ nuôi năm anh em trong hoàn cảnh chiến tranh ác liệt.

Nguyễn Thanh Mỹ
Tiến sĩ Nguyễn Thanh Mỹ thời còn đi đá bóng thuê. Ảnh: NVCC

Động lực để ông đi học là “để mẹ vui lòng, để không bị bắt đi lính chế độ cũ và để cuộc sống sau này bớt khổ cực hơn". Khi ông đỗ tú tài, niềm vui của mẹ chính là hạnh phúc đầu đời của ông.

Để có tiền học, ông tiếp tục làm đủ nghề, từ lơ xe, buôn gạo, cá, tôm, đến đá bóng thuê. Chính những trải nghiệm ấy giúp ông hiểu rõ hơn về nhân sinh quan, tình quê và lòng yêu đất nước.

Đến nhà khoa học tại Mỹ với hàng trăm sáng chế

Tốt nghiệp ngành Hóa hữu cơ, Trường Đại học Bách khoa TPHCM năm 1978, ban đầu ông Mỹ làm công nhân “đá bóng thuê” cho xí nghiệp nhựa.

“Học ngành này mà làm nghề khác là chuyện bình thường. Hãy xem đó như một trải nghiệm. Tôi học Hóa mà đi làm ruộng, làm thuê và tôi vẫn thấy hạnh phúc", ông nói.

Bước ngoặt cuộc đời đến vào sáng 2/9/1979, khi ông ở trên ghe mía và bị đẩy ra đại dương mênh mông. Sau 12 ngày lênh đênh, ông được cứu và đưa đến Montreal (Canada).

Tại đất nước xa lạ, ông làm nhiều nghề để mưu sinh như rửa chén, phụ bếp, rồi làm bồi bàn. “Số phận tôi thay đổi từ một câu hỏi của cô gái Việt Nam: 'Ước mơ trong đời anh là gì?'. Khi đó tôi vừa cắt thịt bò vừa trả lời rằng, ước mơ của tôi là trở về quê hương, xây dựng nhà xưởng, tạo việc làm cho người dân. Cả bếp đều im lặng, có người còn bảo tôi nổ quá”, ông Mỹ kể. 

Để cưới vợ, ông phải đỗ đại học tại bản xứ. Năm 1984, ông nộp hồ sơ vào Đại học Concordia và chỉ hai năm sau đã tốt nghiệp cử nhân. Trong sáu năm, ông hoàn thành các chương trình cử nhân, thạc sĩ và tiến sĩ.

Nguyễn Thanh Mỹ
Tiến sĩ Nguyễn Thanh Mỹ chia sẻ tại lễ khai khóa năm 2025 của Đại học Quốc gia TPHCM. Ảnh: Thiện Thông

Năm 1990, ông bảo vệ thành công luận án Tiến sĩ khoa học năng lượng và vật liệu tại Viện INRS (Canada). Sau đó, ông làm việc tại IBM Almaden Research Center (Mỹ) và giữ vị trí quản lý kỹ thuật tại Kodak Polychrome Graphics (Mỹ).

Ông là tác giả của khoảng 700 sáng chế, trong đó có nhiều sáng chế độc quyền mang lại cho ông hàng chục triệu USD. Đặc biệt sáng chế độc quyền công nghệ in offset kỹ thuật số năm 2000 đã giúp công ty của ông đạt doanh thu gần 300 triệu USD trong vòng 20 năm.

Trở về cống hiến cho quê hương

Về triết lý học tập, ông cho rằng: “Học là sự chuyển hóa kiến thức qua các cấp độ: biết - hiểu - ứng dụng - phân tích - đánh giá - sáng tạo. Sinh viên hiện nay mới chỉ dừng ở ‘biết’ và ‘hiểu’, nhưng phải tiến xa hơn đến ứng dụng và sáng tạo. Hãy bắt đầu từ những điều nhỏ nhất, như tạo một ứng dụng bán rau cho mẹ chẳng hạn". 

Sau những năm tháng thành công ở nước ngoài, ông có lần được vợ hỏi: “Anh còn nhớ ước mơ ngày nào của mình không?”. Câu hỏi ấy khiến ông quyết định trở về quê hương.

Năm 2004, ông về Trà Vinh thành lập Mylan Group - công ty công nghệ cao đầu tiên của tỉnh. Từ đó đến nay ông đã sáng lập và đồng sáng lập 13 doanh nghiệp công nghệ cao, trong đó có 6 doanh nghiệp đang hoạt động tại địa phương.

Ông cũng thành lập Quỹ Nguyễn Thanh Mỹ, tài trợ hơn 62,5 tỷ đồng cho học bổng, xây dựng cơ sở vật chất và chăm sóc sức khỏe cộng đồng. Ngoài ra, ông giảng dạy tại Đại học Trà Vinh, có 10 năm giữ chức Giám đốc chương trình Co-op với nhiều sản phẩm ứng dụng trong nông nghiệp và thủy sản.

Công thức và hành trình thành công

Tiến sĩ Nguyễn Thanh Mỹ chia sẻ công thức thành công của mình với đông đảo sinh viên. Theo ông, "thành công = 15 sức khỏe + 15 tư duy đúng + 25 nỗ lực + 25 tri thức + 10 kiên trì + 5 cơ hội + 5 may mắn + 5 hoàn cảnh".

Sinh viên ĐH Quốc gia TPHCM
Sinh viên ĐH Quốc gia TPHCM trong lễ khai khóa. Ảnh: Thiện Thông

Thành công toàn diện gồm: sức khỏe, sự nghiệp, tài chính, phát triển cá nhân, quản lý thời gian, quan hệ xã hội và đóng góp xã hội. Đời người, theo ông, có bốn giai đoạn: 18-20 tuổi là xây nền; 21-40 tuổi là vươn lên; 41-60 tuổi là cân bằng và sau 60 tuổi là viên mãn.

Mỗi giai đoạn có trọng tâm riêng và quan trọng nhất là sống đúng với giá trị bản thân. Dấu ấn viên mãn của một đời là cống hiến. Ở tuổi hiện tại, tiến sĩ Nguyễn Thanh Mỹ nói rằng mình “đã viên mãn và không còn gì hối tiếc”.

Ông là hình mẫu tiêu biểu cho tinh thần “dám nghĩ - dám làm - dám trở về - dám cống hiến”, kết nối tri thức toàn cầu với khát vọng phát triển Việt Nam.

Diễn giả khách mời là nét đặc trưng của Lễ khai khóa ĐH Quốc gia TP.HCM. Mỗi năm, trường đều mời một lãnh đạo, nhà khoa học hoặc doanh nhân truyền cảm hứng cho sinh viên. Năm nay Lễ khai khóa mang chủ đề “Khát vọng đổi mới sáng tạo vì một Việt Nam hùng cường”.

GS Nguyễn Thị Thanh Mai
GS.TS Nguyễn Thị Thanh Mai, Phó Giám đốc ĐH Quốc gia TPHCM. Ảnh: Thiện Thông

GS.TS Nguyễn Thị Thanh Mai, Phó Giám đốc ĐH Quốc gia TPHCM, kỳ vọng hơn 100.000 nhân lực chất lượng cao của đại học cùng nuôi dưỡng khát vọng đổi mới sáng tạo vì tương lai tiến bộ, sung túc và có ảnh hưởng tích cực hơn. Bà gửi gắm ba thông điệp: Dám nghĩ khác - Dám thất bại - Dám làm lại.

Bà khuyến khích sinh viên dám ước mơ, học hỏi không ngừng từ thầy cô, bạn bè, chuyên gia và cả đời sống xã hội; coi thất bại là bài học quý để trưởng thành, sẵn sàng đứng dậy và làm lại với phiên bản tốt hơn của chính mình.

Đối với cán bộ, giảng viên, nhà khoa học, bà kêu gọi dám đổi mới trong quản lý, giảng dạy, nghiên cứu và phục vụ cộng đồng. Khi cơ chế, hành lang pháp lý đã thông thoáng hơn, thầy cô cần tiên phong để dẫn dắt người học tiến xa hơn.

TheoVietnamnet.vn